Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

BÀN VỀ CON NGƯỜI NGỤY TRONG TIỂU THUYẾT CỦA KIM DUNG

HUY THANH
Image
I- KIM DUNG NHÀ VĂN VIẾT TRUYỆN KIẾM HIỆP NỔI TIẾNG CỦA TRUNG QUỐC :
A- NHỮNG NÉT LỚN VỀ CUỘC ĐỜI , SỰ NGHIỆP, TÁC PHẨM CUẢ KIM DUNG :

( Lược trích Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )

Kim Dung (tiếng Hán: 金庸, Jin Yong) sinh ngày 6 tháng 2 năm 1924 là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại Từ năm 1955 đến 1972 ông đã viết tổng cộng 15 cuốn tiểu thuyết. Sự nổi tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được coi là người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất. 300 triệu bản in (chưa tính một lượng rất lớn những bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, châu Á và đã được dịch ra các thứ tiếng Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tử.

Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2), là tiểu hành tinh được tìm ra trùng với ngày sinh của ông (6 tháng 2). Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả bầu là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc.

Image
Kim Dung tên thật là Tra Lương Du sinh vào ngày 6 tháng 2 năm 1924

Thuở nhỏ Kim Dung là một đứa trẻ thông minh, hoạt bát, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá.Sáu tuổi, ông vào trường tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé có Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ

Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩ Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ Tại học viện chính trị Trung Ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh – Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi

Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp

Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.

Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên của ông rất xinh đẹp. Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đ́nh. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừ lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông, nghĩa là "cái chuông lớn". Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.

Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.
B- TÁC PHẨM CỦA KIM DUNG Ở VIỆT NAM:

Dịch giả đưa Kim Dung lên cơn sốt tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản Cô gái Đồ Long (dịch Ỷ thiên Đồ long ký), đăng trên báo Đồng Nai năm 1961. Thực ra trước đó, đã có một số bản dịch như Bích huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp (Thần điêu hiệp lữ) của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, truyện kiếm hiệp vẫn được xem là thứ giải trí rẻ tiền. Bản dịch Cô gái Đồ Long mới tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung trong các tầng lớp độc giả từ bình dân đến trí thức. Một số nhà văn nhà báo lấy bút danh theo tên nhân vật trong truyện Kim Dung như Hư Trúc, Kiều Phong... Nhiều nhà văn nổi tiếng tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý, công phu nhất là Đỗ Long Vân với loạt bài Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung.
Dịch giả truyện Kim Dung tài hoa nhất là Hàn Giang Nhạn với các bản dịch Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh ký... câu văn thanh thoát tự nhiên, sinh động.

Sau 1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân... với lý do "văn hóa đồi trụy phản động". Tuy nhiên, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với chủ trương Đổi mới, chính quyền Việt Nam giảm bớt sự cấm đoán gắt gao với văn hóa văn nghệ. Một số phim và sách võ hiệp cũ được phát hành lại. Để dễ xin phép xuất bản, thoạt tiên sách không ghi đúng tên tác giả mà lấy các bút danh khác như Nhất Giang, về sau mới ghi đúng tên Kim Dung, Cổ Long. Nhà xuất bản Quảng Ngãi đã tích cực phát hành lại sách võ hiệp cũ. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet giúp các bản dịch cũ lưu truyền rộng rãi, ban đầu dưới dạng scan từng trang sách, sau đó là dạng văn bản do những người hâm mộ gõ lại. Sau 1975, nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên viết khảo luận về Kim Dung, các bài của ông đăng trên tập san Kiến thức ngày nay, sau in thành bộ Kim Dung giữa đời tôi (4 quyển).

Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên mua bản quyền dịch tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua được bản quyền dịch tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Từ năm 2001, toàn bộ tác phẩm võ hiệp của Kim Dung lần lượt được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất. Các dịch giả gồm có Cao Tự Thanh, Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến).

Trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, dịch giả Nguyễn Duy Chính được xem là người có các bản dịch với chất lượng dịch tốt, điển hình như các bản dịch Thiên long bát bộ và Ỷ thiên Đồ long ký (lưu truyền trên Internet). Nguyễn Duy Chính cũng viết một số khảo luận về các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm của Kim Dung
a)- Quyển sách nổi tiếng tại VN nhận định về tác phẩm Kim Dung

Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung là tên một cuốn tiểu luận dày hơn 300 trang của Đỗ Long Vân. Cuốn sách nổi tiếng ngay sau khi được xuất bản vào năm 1967. Cuốn sách bị cấm tại Việt Nam từ sau sự kiện 30 tháng 4, 1975 cho đến năm 2000, khi nó được in lại trong một tuyển tập. Trước đó tập tiểu luận này cũng được đăng rải rác trên mạng với lời bình của Nguyễn Quốc Trụ. Cuốn tiểu luận được viết bằng bút pháp ấn tượng, với tầm nhìn sâu rộng và những phân tích tỉ mỉ, nên nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh của người đọc. Nguyên Sa đánh giá cao tác phẩm này, còn Bùi Giáng thì tỏ ra hết sức khâm phục, ông thường nhắc đến cuốn sách trong các bài luận kiếm hiệp của mình như một đỉnh cao khó vươn tới.Cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung không xét tới bộ truyện ưu tú Lộc Đỉnh Ký, vì khi ấy bộ truyện này chưa ra đời. Tập sách chỉ xoay quanh Thiên long bát bộ, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên Đồ long ký với những phân tích về võ công, về nội lực, về tính cách nhân vật và những triết lý ẩn chứa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Ở đoạn mở đầu, Đỗ Long Vân tỏ ý muốn tìm ra câu giải đáp cho cái gọi là "hiện tượng Kim Dung" ở khắp miền Nam Việt Nam thời ấy.Sách được xuất bản lần đầu tiên năm 1967 in tại nhà in Trình Bày, Sài Gòn.Bùi Giáng trong "Thi Ca tư tưởng", trong lúc nói về Đỗ Long Vân: Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương, Tây Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng. Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn "Trương Vô Kỵ Giữa Chúng Ta" để đọc lại nhiều lần.

b)-Những tôn vinh về Kim Dung :
Image

Tượng Kim Dung tại đảo Đào Hoa, Phổ Đà, Chu San, Chiết Giang
Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự.Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Bắc đẩu bội tinh năm 1982, Commandeur de l'Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge

C-TÁC PHẨM KIM DUNG :
Image
Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo.
Tên truyện Tên
nguyên bản Tên khác Năm
sáng tác Ghi chú

1 Thư kiếm ân cừu lục 書劍恩仇錄
1955

2 Bích huyết kiếm 碧血劍
1956

3 Xạ điêu anh hùng truyện 射雕英雄傳 Anh hùng xạ điêu 1957 Xạ điêu tam bộ khúc I
4 Thần điêu hiệp lữ 神雕俠侶 Thần điêu đại hiệp 1959 Xạ điêu tam bộ khúc II
5 Tuyết sơn phi hồ 雪山飛狐
1959

6 Phi hồ ngoại truyện 飛狐外傳 Lãnh nguyệt bảo đao 1960 Tiền Tuyết sơn phi hồ
7 Bạch mã khiếu tây phong 白馬嘯西風
1961

8 Uyên Ương đao 鴛鴦刀
1961

9 Ỷ thiên Đồ long ký 倚天屠龍記 Cô gái Đồ Long 1961 Xạ điêu tam bộ khúc III
10 Liên thành quyết 連城訣
1963

11 Thiên long bát bộ 天龍八部 Lục mạch thần kiếm 1963 Tiền Xạ điêu tam bộ khúc
12 Hiệp khách hành 俠客行
1965

13 Tiếu ngạo giang hồ 笑傲江湖
1967

14 Lộc Đỉnh ký 鹿鼎記 Lộc Đỉnh Công 1969-1972

15 Việt nữ kiếm 越女劍
1970,
truyện ngắn


Một số tác phẩm của Kim Dung có những nhân vật và chi tiết bắc cầu với nhau, tuy nhiên đều có thể đọc độc lập.

Chùm truyện có thể nói là nổi tiếng nhất, và cũng có nhiều chi tiết liên kết chặt nhất, là Xạ điêu tam bộ khúc (射鵰三部曲), gồm ba tác phẩm Xạ điêu anh hùng truyện (cuối đời Tống), Thần điêu hiệp lữ (thời Mông Cổ đánh Tống), Ỷ thiên Đồ long ký (thời nhà Minh nổi lên đánh Mông Cổ).
Thiên Long bát bộ (thời Tống) lấy bối cảnh trước Xạ điêu anh hùng truyện, nhưng nội dung câu chuyện vốn là độc lập. Khi Kim Dung sửa chữa Xạ điêu anh hùng truyện đã sửa lại vài chi tiết để bắc cầu với Thiên Long bát bộ.
Vài nhân vật của Bích huyết kiếm (thời Minh mạt, Mãn Châu vào đánh) xuất hiện trong Lộc Đỉnh ký (đời Khang Hy).

Vài nhân vật trong Thư kiếm ân cừu lục xuất hiện trong Phi hồ ngoại truyện, tác phẩm này lại kể lai lịch, hành trạng của Hồ Phỉ và một số nhân vật khác của Tuyết sơn phi hồ (các truyện này lấy bối cảnh đời Càn Long).

Các truyện khác của Kim Dung không liên quan với nhau và cũng không có bối cảnh lịch sử cụ thể, trừ Việt nữ kiếm xảy ra thời Xuân
Hai câu thơ sắp thành tựa đề

Sau khi Kim Dung hoàn thành các tác phẩm của mình, một người bạn của ông là Nghê Khuông phát hiện rằng chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết tạo thành hai câu thơ thất ngôn:
Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên Dịch nghĩa:
Tuyết bay đầy trời bắn hươu trắng Truyện cười thần hiệp tựa uyên xanh D- CHỦ ĐỀ TÁC PHẨM KIM DUNG

Chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc là đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung. Ông nhấn mạnh đến sự độc lập tự chủ của người Hán, và nhiều tác phẩm của ông là bối cảnh khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những người phương bắc như Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ. Nhưng dần dần chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc bây giờ. Kim Dung đặc biệt khâm phục các đặc điểm của người Mông Cổ, Mãn Châu. Trong Anh hùng xạ điêu, hình tượng của Thành Cát Tư Hãn và các con của ông là những vị tướng tài ba, những dũng sĩ kiêu dũng trên đại mạc đứng lên lập nên đại nghiệp, uy hiếp Tống lụn bại. Hoặc như trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung miêu tả vua Khang Hy nhà Thanh là một người có lòng trắc ẩn và có năng lực. Trong Thiên long bát bộ, Kiều Phong mặc dù là người Khiết Đan nhưng từ nhỏ đã được người Hán nuôi dưỡng. Chính điều đó đã khiến Kiều Phong vì người Hán ngăn cản vua Liêu tiến quân.

Các tác phẩm của Kim Dung có thể coi là cuốn từ điển nhỏ về phong tục, tập quán, văn hóa Trung Hoa, bao gồm các lĩnh vực y thuật dân tộc Trung Quốc, châm cứu, võ thuật, âm nhạc, thư pháp, cờ vây, trà đạo, các triết học của đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão, và lịch sử phong kiến Trung Hoa. Các nhân vật lịch sử hòa trộn vào các nhân vật trong truyện.

Các tác phẩm của ông rõ ràng đã tỏ lòng tôn trọng và tán thành các giá trị truyền thống Trung Hoa, đặc biệt là các quan niệm Khổng giáo như là mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, anh em, và nhất là giữa sư phụ và đồ đệ, giữa các huynh đệ. Kim Dung cũng nhấn mạnh vào các giá trị truyền thống như là danh dự và thể diện.

Cuối cùng ông phá vỡ các phép tắc đó trong tác phẩm cuối cùng Lộc Đỉnh ký. là một nhân vật chính nhưng Vi Tiểu Bảo không theo mô thức của các nhân vật chính mà Kim Dung đã dàn dựng, không phải là một biểu tượng của một anh hùng hảo hán, chính tà bất phân, không theo một tiêu chuẩn đạo đức nhất định, nhưng là một kẻ sống rất "nghĩa khí" và rất hết lòng vì bạn bè.




Các tác phẩm của Kim Dung đã nhận được nhiều phê bình từ độc giả và các nhà phê bình văn học. Nghê Khuông, một nhà văn nổi tiếng và là bạn của Kim Dung đã viết rất nhiều bài viết phân tích các nhân vật và thế giới võ thuật trong các tác phẩm của ông.

Tuy nhiên nhiều tác phẩm của Kim Dung đã bị cấm ở nhiều nơi ngoài Hồng Kông vì những lí do chính trị. Nhiều tác phẩm bị cấm ở Trung Hoa đại lục vì bị cho là chế nhạo Mao Trạch Đông và Cải cách văn hóa. Chính quyền Đài Loan cũng cấm vì cho rằng các tác phẩm này ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hiện giờ các tác phẩm của Kim Dung không bị cấm nữa. Một số chính trị gia như Đặng Tiểu Bình còn là người hâm mộ các tác phẩm của ông.

Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên Long Bát Bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc
E- NHỮNG TÁC PHẨM ĂN THEO TIỂU THUYẾT CỦA KIM DUNG :

Có thể một phần vì muốn hoàn thiện các khe hở tình tiết trong truyện Kim Dung, phần vì muốn phát triển rộng thêm các chi tiết truyện, phần là ăn theo, rất nhiều người đã viết truyện dựa theo cốt, theo nhân vật trong truyện Kim Dung mà tạo dựng nhiều tác phẩm khác, thậm chí dựng thành phim gọi chung là các tác phẩm dựa Kim Dung xem tại đây:
Tác phẩm Người dịch Người viết

1 Bẻ kiếm bên trời Hàn Giang Nhạn

2 Cự Linh Thần Chưởng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

3 Độc Cô Quái Khách Hàn Giang Nhạn

4 Đơn kiếm diệt quần ma Tiền Phong Từ Khánh Phụng

5 Hắc Thánh Thần Tiêu Thương Lan

6 Hậu Anh Hùng Xạ Điêu


7 Hậu Cô Gái Đồ Long
Ỷ thiên Đồ long Ký hậu truyện


8 Huyết Mỹ Nhân


9 Loạn Võ Công Ký
Phạm Thế Tài
10 Ma Nữ Đa Tình


11 Song Nữ Hiệp Hồng Y Tiền Phong Từ Khánh Phụng

12 Thái A Kiếm Tiền Phong Từ Khánh Phụng

13 Thạch Phá Thiên
Hậu Hiệp khách hành


14 Tiếng Đàn Ma


15 Tiếu Ngạo Giang Hồ Hậu Ký
TMP
16 Tiểu Tà Thần Tiền Phong Từ Khánh Phụng

17 Tục Thái A Kiếm


18 Tục Tiểu Tà Thần


19
Võ Lâm Ngũ Bá
Anh Hùng Xạ Điêu tiền truyện
F-BẢN CHẤT CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIM DUNG





Về bản chất, các nhân vật (kể cả các bang hội) chia rõ ra hai phe chính - tà trên danh nghĩa. Nhưng sự thật ai cũng thấy là những người thuộc về phe tà không hẳn là một phường gian ác, mà những kẻ phe chính cũng không nhuần là nhân nghĩa. Có những nhân vật ra mặt đức độ rất lâu, đến một lúc nào đó lại hiện rõ sự gian ác, tráo trở làm người đọc không khỏi bất ngờ.
Ta thử lược khảo vài nhân vật Nam và nử trong truyện Kim Dung :

a)-Nhân vật nam

Các nhân vật nam chính thường được mô tả từ khi còn nhỏ, cốt truyện tiếp nối các gian nan, thử thách của họ trước khi đạt tới trình độ võ công cao nhất. Trong truyện Kim Dung, những người đạt tới cảnh giới cao nhất của võ học đều là nam giới, như Tạ Tốn, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Độc Cô Cầu Bại...Những nhân vật nam cũng là thường đầu mối chính trong các xung đột lớn nhỏ, vì ngoài số ít những kẻ chất phác, Kim Dung thường cho những nhân vật nam tính ham công danh lợi lộc, dẫn đến tàn sát lẫn nhau.
•Trần Gia Lạc: Thư kiếm ân cừu lục
•Viên Thừa Chí: Bích huyết kiếm
•Quách Tĩnh: Anh hùng xạ điêu
•Dương Quá: Thần điêu đại hiệp
•Hồ Nhất Đao Tuyết sơn phi hồ
•Miêu Nhân Phượng: Tuyết sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện
•Hồ Phỉ Tuyết sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện
•Trương Thúy Sơn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Trương Vô Kỵ: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Địch Vân: Liên thành quyết
•Tiêu Phong: Thiên long bát bộ
•Đoàn Dự: Thiên long bát bộ
•Hư Trúc: Thiên long bát bộ
•Thạch Phá Thiên: Hiệp khách hành
•Lệnh Hồ Xung: Tiếu ngạo giang hồ
•Nhạc Bất Quần: Tiếu ngạo giang hồ
•Tả Lãnh Thiền: Tiếu ngạo giang hồ
•Nhậm Ngã Hành: Tiếu ngạo giang hồ
•Vi Tiểu Bảo: Lộc Đỉnh Ký

Các nhân vật nam mà Kim Dung yêu thích nhất là: Lệnh Hồ Xung, Kiều Phong, Quách Tĩnh, Dương Quá, Đoàn Dự, Trương Vô Kỵ, Phong Thanh Dương, Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông
b)-Nhân vật nữ

Mặc dù nữ nhân vật trong nhiều tác phẩm võ thuật được tạo ra để minh họa cho tình yêu của các nhân vật nam, nhiều nhân vật nữ lại là trung tâm của cốt truyện, được miêu tả là những cá nhân không bị lệ thuộc, mạnh mẽ, độc lập, thông minh, và có võ thuật tài giỏi. Ví dụ, Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu không chỉ là người Quách Tĩnh yêu mến mà còn là một cô gái dí dỏm, thông minh hơn chồng mình là Quách Tĩnh. Năng lực trí tuệ của cô cùng với sức mạnh cơ thể của Quách Tĩnh đã bổ sung cho nhau. Hoắc Thanh Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục là một người giỏi võ, một người chị biết che chở, một đứa con có hiếu, và là một người sẵn sàng bảo vệ cho lợi ích của những người thân và dân tộc của cô. Công chúa Hương Hương dù không biết võ thuật nhưng cô đóng vai trò quan trọng trong câu truyện. Cuối truyện, cô tỏ ra không chỉ xinh đẹp mà còn đủ thông minh đế biết được sự thèm muốn của Càn Long. Cô có lòng cam đảm để hi sinh chính mình để bảo vệ của bộ tộc và cảnh báo Trần Gia Lạc trước những âm mưu của Càn Long. HÂn Tố Tố, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược được miêu tả có sự can đảm, quyết tâm và thông minh bằng, nếu không nói là hơn các nhân vật nam khác trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.
Các nữ nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung gồm có:
•Hương Hương công chúa: Thư kiếm ân cừu lục
•Hoắc Thanh Đồng: Thư kiếm ân cừu lục
•Lý Nguyên Chỉ: Thư kiếm ân cừu lục
•Hạ Thanh Thanh: Bích huyết kiếm
•A Cửu (Trường Bình công chúa): Bích huyết kiếm
•Hoàng Dung: Anh hùng xạ điêu
•Tiểu Long Nữ: Thần điêu đại hiệp
•Viên Tử Y: Phi hồ ngoại truyện
•Trình Linh Tố: Phi hồ ngoại truyện
•Miêu Nhược Lan: Tuyết sơn phi hồ
•Ân Tố Tố Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Triệu Mẫn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Tiểu Chiêu: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Chu Chỉ Nhược: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Thích Phương: Liên thành Quyết
•Thủy Sinh: Liên thành Quyết
•A Châu Thiên long bát bộ
•A Tử: Thiên long bát bộ
•Vương Ngữ Yên: Thiên long bát bộ
•Mộc Uyển Thanh: Thiên long bát bộ
•Chung Linh: Thiên long bát bộ
•Tiêu Trung Tuệ: Uyên ương đao
•Lý Văn Tú: Bạch mã khiếu tây phong
•Đinh Đang: Hiệp khách hành
•A Tú: Hiệp khách hành
•A Thanh: Việt Nữ kiếm
•Nhậm Doanh Doanh: Tiếu ngạo giang hồ
•Nhạc Linh San: Tiếu ngạo giang hồ
•Nghi Lâm: Tiếu ngạo giang hồ
•Song Nhi: Lộc Đỉnh ký
•Tô Thuyên: Lộc Đỉnh ký
•Tăng Nhu: Lộc Đỉnh ký
•Phương Di: Lộc Đỉnh ký
•Mộc Kiếm Bình: Lộc Đỉnh ký
•Kiến Ninh công chúa: Lộc Đỉnh ký
•A Kha: Lộc Đỉnh ký

Các nhân vật nữ mà Kim Dung yêu thích nhất là: Hoàng Dung, Tiểu Long Nữ, Trình Linh Tố, Lạc Băng, A Cửu, Hà Thiết Thủ, Lam Phượng Hoàng.

Các nhân vật nữ mà Kim Dung xem là người vợ lý tưởng bao gồm: Nhậm Doanh Doanh, Triệu Mẫn, A Châu, Tăng Nhu, Chu Chỉ Nhược.

Các nhân vật nữ mà Kim Dung nguyện suốt đời yêu thương và bảo vệ là: Quách Tương, Tiểu Chiêu, Nghi Lâm, Song Nhi, A Bích, A Cửu, Trình Anh, Công Tôn Lục Ngạc, Cam Bảo Bảo

Ngũ tuyệt

"Thiên hạ ngũ tuyệt" (Võ lâm ngũ bá) là năm nhân vật được coi như có võ công cao nhất trong Xạ điêu tam bộ khúc. Ở lần gặp thứ nhất Hoa Sơn luận kiếm (chuyện xảy ra trước bộ Anh hùng xạ điêu nhưng được nhắc lại) đã phân định Vương Trùng Dương là người võ công cao nhất. Ngũ tuyệt gồm có:
•Vương Trùng Dương ở trung tâm (Trung Thần Thông)
•Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)
•Âu Dương Phong ở phương Tây (Tây Độc)
•Đoàn Trí Hưng ở phương Nam (Nam Đế)
•Hồng Thất Công ở phương Bắc (Bắc Cái)
Ngoài ra, Lâm Triều Anh và Cừu Thiên Nhận cũng được coi trọng mặc dù vắng mặt trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ nhất.

Lần Hoa Sơn luận kiếm thứ hai, được kể cuối bộ Anh hùng xạ điêu, không phân thắng bại vì Âu Dương Phong đã bị tẩu hỏa nhập ma còn Cừu Thiên Nhận rút lui. Tuy vậy, Chu Bá Thông, sư đệ của Vương Trùng Dương có thể coi là người có võ công giỏi nhất tại thời điểm đó.

Ở lần Hoa Sơn luận kiếm thứ ba, được kể cuối bộ Thần điêu hiệp lữ, không còn Cừu Thiên Nhận và Kim Luân Pháp Vương vì đã chết. Hồng Thất Công và Âu Dương Phong cũng đã mất sau trận kịch đấu bất phân thắng bại. Kết cuộc, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh và Dương Quá thế chỗ Vương Trùng Dương, Hồng Thất Công và Âu Dương Phong trong danh sách ngũ tuyệt:
•Chu Bá Thông ở trung tâm (Trung Ngoan Đồng)
•Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)
•Dương Quá ở phương Tây (Tây Cuồng)
•Nhất Đăng ở phương Nam (Nam Tăng)
•Quách Tĩnh ở phương Bắc (Bắc Hiệp)
Nhất Đăng là pháp hiệu của Đoàn Trí Hưng sau khi thoái vị và trở thành hòa thượng.

Độc Cô Cầu Bại

Độc Cô Cầu Bại là nhân vật độc nhất trong các tác phẩm của Kim Dung. Nhân vật này chưa bao giờ xuất hiện trong tác phẩm, nhưng có võ công tuyệt hảo. Chỉ có tên được nhắc đến trong Anh Hùng Xạ Điêu, Thần điêu đại hiệp, Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh Ký. Sau này, một số hãng phim cũng có xây dựng phim bộ từ nhân vật này.

Độc Cô Cầu Bại tuy không xuất hiện, nhưng những gì ông để lại cũng đủ làm nên một trường sóng gió. Như bốn thanh kiếm dành cho Dương Quá, cộng với con chim khổng lồ đã giúp Dương Quá sáng tạo ra một pho võ công thượng thặng. Lệnh Hồ Xung qua Phong Thanh Dương học được võ công Độc Cô cửu kiếm mà kiếm pháp của y đã trở thành thiên hạ vô địch thủ (với tiêu chí là vô chiêu thắng hữu chiêu).

G- NHỮNG NHẬN VÂT LỊCH SỬ TRUNG HOA TRONG TRUYỆN KIM DUNG :

Kim Dung đã phỏng theo nhiều nhân vật lịch sử và đưa vào các tác phẩm của mình. Ông tự do thêm các chi tiết hội thoại, hành động mà trong tiểu sử chính thức của những nhân vật này không đề cập đến. Ví dụ như Đà Lôi là con út của Thành Cát Tư Hãn xuất hiện là bạn thời thơ ấu của Quách Tĩnh; Vi Tiểu Bảo trở thành bạn của vua Khang Hy... Các tiểu thuyết của Kim Dung có yếu tố lịch sử bao gồm: Thư kiếm ân cừu lục, Bích huyết kiếm, Thiên Long bát bộ, Xạ Điêu tam bộ khúc, Lộc Đỉnh ký và Việt nữ kiếm
•Hoàn Nhan A Cốt Đả: Thiên long bát bộ
•Gia Luật Hồng Cơ Thiên long bát bộ
•Đế quốc Mông Cổ •Thành Cát Tư Hãn, Truật Xích, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài, Đà Lôi: Anh hùng xạ điêu
•Mông Kha, Hốt Tất Liệt: Thần Điêu hiệp lữ

•Gia Luật Sở Tài: Thần Điêu hiệp lữ
•Toàn Chân giáo, xuất hiện nhiều trong Xạ Điêu tam bộ khúc, gồm: •Vương Trùng Dương người sáng lập ra giáo phái Toàn Chân.
•Mã Ngọc, Khâu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền, Đàm Xứ Đoan, Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị: Toàn Chân thất tử.

•Trương Tam Phong: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Trần Hữu Lượng: Ỷ Thiên Đồ Long ký
•Nhà Thanh •Hoàng Thái Cực, Khang Hi: Lộc Đỉnh ký
•Càn Long:Thư kiếm ân cừu lụ

•Sùng Trinh, Ngô Tam Quế: Lộc Đỉnh ký
•Vương quốc Đại Lý
•Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự (hay còn gọi là Đoàn Chính Nghiêm): Thiên long bát bộ
•Đoàn Trí Hưng: Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp
H- NHỮNG THÉ VỎ, CHIÊU THỨC TRONG KÍẾM HIỆP KIM DUNG :

Chiêu thức cũng là một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Có những chiêu thức tuy không nói ra nhưng hàm chứa một triết lý sống, ví dụ:
•Chiêu Độc Cô cửu kiếm của Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ. Với tiêu chí vô chiêu thắng hữu chiêu, chỉ có tiến không có lùi. Nó cũng như bản tính của Lệnh Hồ Xung tính tình phóng đãng (vô chiêu) không muốn đi theo tập tục lễ giáo (hữu chiêu), làm việc gì cũng theo ý mình không cần phải e ngại (chỉ có tiến không có thoái).
•Chiêu Hàng long thập bát chưởng của Cái Bang, là một môn võ công thuần cương, tấn công trực diện, nên chỉ có những người tâm địa ngay thẳng như Kiều Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh... là đạt tới đỉnh cao của nó.
Những chiêu thức nổi tiếng nhất trong truyện Kim Dung có thể kể đến:
•Kim xà bí kíp: là võ công do Hạ Tuyết Nghi-Kim Xà Lang Quân sáng tạo ra và Viên Thừa chí tình cờ học được.
•Hàng long thập bát chưởng là chưởng pháp lừng danh, chỉ truyền cho đệ tử Cái Bang từ 8 túi trở lên và lập nhiều công lớn.
•Dịch cân kinh (Dịch cân Tẩy tủy kinh, Đạt Ma Dịch cân kinh) là một phương pháp rèn luyện nội công của phái Thiếu Lâm
•Thái cực quyền của Trương Tam Phong chưởng môn phái Võ Đang sáng tác, là một môn võ .
•Ảm nhiên tiêu hồn chưởng là môn võ công quái dị của Dương Quá.
•Càn khôn đại nã di, bí kíp nội công thượng thặng của Minh Giáo.
•Quỳ Hoa bảo điển - Tịch tà kiếm phổ, là 1 loại võ công nhưng bị biến đổi thành 2 cách luyện, cả 2 cách luyện đều đòi hỏi người luyện phải tự cung.
•Đả cẩu bổng pháp: môn võ công gậy đánh chó, chỉ dành cho bang chủ Cái Bang.
•Song thủ hỗ bác: chiêu thức quái đản của Chu Bá Thông, là thuật phân tâm sao cho 2 bàn tay có thể ra 2 chiêu khác nhau cùng 1 lúc.
•Độc cô cửu kiếm: môn võ của Độc Cô Cầu Bại, được Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung.
•Hấp tinh đại pháp, môn võ bị căm ghét nhất võ lâm, vì hút nội lực kẻ khác.
•Lục mạch thần kiếm: Kiếm pháp thượng thừa của nước Đại Lý.
•Lăng ba vi bộ: Khinh công thượng thừa của phái Tiêu Dao, môn võ mà Đoàn Dự vô tình học được.
•Đàn chỉ thần công: Môn võ này dùng sức mạnh nội công để bắn đi hòn đá nhỏ bằng ngón tay. Đây là tuyệt học đắc ý của Hoàng Dược Sư.
•Lạc Anh thần kiếm chưởng: Cũng là một chiêu đắc ý của Hoàng Dược Sư.
•Cáp mô công: môn võ của Âu Dương Phong (cáp mô nghĩa là con cóc)
•Cửu âm chân kinh: Một bộ bí kíp võ công cao siêu âm độc vốn thuộc sở hữu cửa Vương Trùng Dương
•Cửu dương thần công: Một bí kíp võ công có khả năng bảo vệ cơ thể tốt mà Trương Vô Kỵ học được
•Nhất dương chỉ :Môn võ chỉ truyền giữa các đời vua Đại Lý
•Bắc Minh thần công :Môn võ Đoàn Dự học được, tương tự với Hấp Tinh đại pháp.
•Tiên Thiên công: Môn võ tuyệt học của phái Toàn Chân, nhờ nó mà Vương Trùng Dương mới trở thành Đệ nhất thiên hạ trong Hoa Sơn luận kiếm lần thứ nhất. Sau lần này, vì lo ngại sau khi mình mất đi sẽ không còn ai trị được Tây Độc Âu Dương Phong, nên Vương Trùng Dương đến Đại Lý truyền lại cho Đoàn Chí Hưng, đồng thời học lấy Nhất Dương Chỉ công. Chỉ khi có Tiên Thiên công và Nhất Dương Chỉ Công mới có thể đã thông được kỳ kinh bát mạch.
•Ngọc Nữ tâm kinh: Môn võ của phái Cổ Mộ.
•Thất tinh Bắc Đẩu trận: Trận pháp dựa theo vị trí của 7 vì sao do Thanh Hư Chân Nhân truyền lại cho Vương Trùng Dương và được thi triển bởi 7 đệ tử.
•Sư tử hống: Tuyệt chiêu của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
•Tử hà thần công: Môn võ của Nhạc Bất Quần trưởng môn phái Hoa Sơn (Tiếu ngạo giang hồ
•Thiết chưởng: Tuyệt chiêu của Cừu Thiên Nhận (Anh hùng xạ điêu)
•Cửu Âm bạch cốt trảo: Môn võ Mai Siêu Phong học được từ Cửu Âm chân kinh.
•Thần chiếu kinh thần chưởng là môn công phu rất lợi hại: chỉ cần chụp vào ai là người đó chết, trừ phi mặc chiếc Ô Tằm Giáp.
•Kim Cuơng phục ma khuyên: là trận pháp của bà nhà sư chữ Độ phái Thiếu Lâm, sau bị Truơng Vô Kỵ phá giải.
Chiêu thức võ công mà Kim Dung yêu thích nhất là Kháng long hữu hối (trong Hàng long thập bát chưởng.
I - NHỮNG BANG HỘI, MÔN PHÁI VÕ LÂM TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG

Nhiều môn phái, bang hội trong các tác phẩm của Kim Dung được nhắc lại nhiều lần. Có những phái có thật ngoài đời mặc dù các chi tiết đã được Kim Dung thêm nhiều. Các môn phái, bang hội, giáo phái hay gặp nhất trong các tác phẩm của Kim Dung là:
•Thiếu Lâm
•Cái Bang
•Võ Đang
•Côn Luân
•Nga Mi
•Không Động
•Minh Giáo
•Cổ Mộ
•phái Thanh Thành
•Điểm Thương
•Ngũ Nhạc kiếm phái bao gồm: •Tung Sơn
•Thái Sơn
•Hoa Sơn
•Hành Sơn
•Hằng Sơn

•Đại Lý Đoàn Thị
•Toàn Chân giáo

Những môn phái này chia ra hai phe chánh - tà thường xuyên đối chọi nhau, phe chính được kêu là Danh môn chính phái, phe tà bị gọi là Tà ma ngoại đạo. Về chất lượng của các bang, phái, trong truyện Kim Dung thường nhắc đến Thiếu Lâm, Cái Bang (mệnh danh là Thái Sơn và Bắc Đẩu trong võ lâm) và Minh Giáo, về võ công thì Thiếu Lâm là nhất, về bang hội thì Cái Bang mạnh nhất, còn về giáo phái thì Minh Giáo mạnh nhất. Tuy nhiên đọc hết các tác phẩm của ông thì ta thấy đó chỉ là cái hư danh.

Thời biểu xãy ra trong truyện
Kim Dung

Tiểu thuyết
飛 Phi 笑 Tiếu
雪 Tuyết 書 Thư
連 Liên 神 Thần
天 Thiên 俠 Hiệp
射 Xạ 倚 Ỷ
白 Bạch 碧 Bích
鹿 Lộc 鴛 Uyên
Truyện ngắn
越女劍 Việt nữ kiếm
Năm Tiểu thuyết

Thế kỉ 6 TCN Việt Nữ kiếm
Thế kỉ 11 Thiên long bát bộ
Thế kỉ 13 Anh hùng xạ điêu
Thần điêu đại hiệp
Thế kỉ 14 Ỷ thiên Đồ Long ký
Thế kỉ 16 Tiếu ngạo giang hồ
Hiệp khách hành
Thế kỉ 17 Bích huyết kiếm
Lộc Đỉnh ký
Thế kỉ 18 Thư kiếm ân cừu lục
Phi hồ ngoại truyện
Tuyết sơn phi hồ
Thế kỉ 19 Liên thành quyết

1 Tiếu ngạo giang hồ không nói rõ xảy ra vào thời gian nào; Kim Dung nói rằng ông cố tình bỏ ngỏ. Tuy vậy độc giả đã phát hiện ra rằng câu truyện có thể xảy ra vào thời Minh, bởi vì phái Võ Đang và Nga Mi (thành lập vào đầu triều Minh) xuất hiện nổi bật, và bởi vì người Mãn Châu không được đề cập. Trong vài bộ phim chuyển thể như Swordsman II với Lý Liên Kiệt đóng vai chính, câu truyện diễn ra vào thời vua Vạn Lịch, tức là cuối triều Minh, trước khi nhà Thanh xâm lấn
I I - BÀN VỀ CON NGƯỜI "NGỤY " TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG

Danh từ Ngụy người ta thường dùng để chỉ một con người, hay một thể chế nào đó hình thức bên ngoài là tốt, nhưng thực ra bên trong vô cùng xấu xa, một tính chất lừa đảo nhiều người, có khi cả một dân tộc, nhiều khi cả thấ giới. Ngụy ở đây là ngụy tạo, là che đậy những âm mưu hiểm độc nhằm chiếm đoạt danh vọng ,địa vi, vật chất cho cá nhân hay tập đoàn của mình mà bên ngoài vẫn rêu rao những lời lẻ có vẻ hợp lý ,vị tha, đạo đức.

Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, có một cuốn tôi tâm đắc nhất nói về tâm lý nhân vật đó là cuôn Tiếu Ngạo Giang Hồ mà hai nhân vật tiêu biểu nhất là Quân Tử Kiếm Nhạc Bất Quần và người học trò Lệnh Hồ Xung . Nhân vật mà tôi giới thiệu trong Entry nấy là con người đặc biệt, có cái bề ngoài là một danh kiếm , tướng mạo đẹp đẻ như thư sinh, là chưỡng môn một chính phái , y nổi danh là quân tử nên giới vỏ lâm chính đạo đặt cho y danh hiệu là Quân Tử Kiếm .Nhưng bên trong cái phong thái chính nhân Quân Tử Kiếm đó là cả những âm mưu hiểm độc làm hại học trò, gia dình, giới vỏ lâm, và cả bản thận mình chỉ vì tham vọng làm Bá Chủ Võ Lâm .của y. Ta thử đọc truyện xem Quân Tủ Kiếm Nhạc Bất Quần chưỡng môn phái Hoa Sơn đã thực hiện những âm mưu đó như thế nào

Thiết nghĩ ,để quý vị độc giả có thể hiểu được bài tham luận nầy tôi xin tóm lược lại cốt truyện cuốn Tiếu Ngạo Giang Hồ , những tình tiết cần nhấn mạnh về hành động nhân vật chính diện lẫn phản diện từ tâm lý , để có cơ sở phân tích và luận bàn trong chủ đề Entry nầy
Tóm tắt cốt truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ :

Đất Trung Hoa ngày xưa có năm ngọn núi gọi là Ngũ Nhạc gồm : Thái Sơn, Hắng Sơn, Tung Sơn, Hành Sơn, và Hoa Sơn. Mỗi núi có một môn phái hiếm hiệp cát cứ làm lãnh địa để làm dinh trại, thâu nhận , dạy dổ đệ tử để lưu truyền môn vỏ thuật của mình của mình Người đứng đầu phái được gọi là chuởng môn, một chức vụ như là vua một nước . Mỗi chưỡng môn đều có những ngón vỏ bí kiếp riêng, mổi người là một đại cao thủ nên có những ngón vỏ bí truyền ,tuyệt luân, không ai đich nổi .Họ thường đứng ra thâu nhận và nuôi dưỡng rất nhiều các đồ đệ của mình để dạy dổ, làm những hậu duệ sau nầy để lưu truyền môn vỏ của mình sau khi họ qua đời Mối giao hảo của các kiếm phái dựa trên hình thức đồng đạo vỏ lâm nhưng thực ra cũng ngấm ngầm đố kỵ ghen ghét lẩn nhau ,chỉ chờ có dịp trổ tài tranh nhau để thống nhất các phái. Trong các cuộc tỉ vỏ , phe nào thắng , chưỡng môn của họ sẽ lên làm minh chủ vỏ lâm tương tự như làm vua cả thé giới,một chức vụ mà chưỡng môn nào cũng khát vọng muốn làm dù phải trả bất cứ giá nào .Thời đó võ lâm có hai loại là Chính Phái và Tà Phái , phe nào cũng tự xưng mình là Chính Phái và gọi phe kia là Tà Phái hay Ma Đạo hay Ngụy Giáo, Ma Giáo .

Chưởng môn phái Hoa Sơn là Nhạc Bất Quần là một người lớn tuổi nhưng mặt mày thanh tú đẹp như ngọc vì nhờ có nội công thâm hậu , mặc dù hơn sáu mươi tuổi nhưng vẫn còn như bốn mươi Dáng dấp như một nhà nho nên thường đựợc gọi là tiên sinh ..Ông được gọi là Quân tử Kiếm vì cốt cách hiên ngang đường đường chính chính , không đánh lén kẻ địch bao giờ . Ông,được giới vỏ lâm chính đạo cho là mẩu mực của bậc quân tử trong làng võ thuật Môn vỏ bí truyền của Nhạc Bất Quần là Hoa Sơn Kiếm Pháp và vỏ công Tử Hà Công thâm hậu khiến chính phái hay tà phái cũng phải kiên dè .

Nhạc Bất Quần có vợ là Ninh Trung Tăc , một cô con gái rất xinh đẹp là Nhạc Linh San rất hiếu thảo .Lúc đó ở Phúc Oai Tiêu Cục của Lâm Chấn Nam người ta đồn đại cò một vỏ công bí kiềp tên là Tịch Tà Kiềm Phổ mà ai luyện thành công sẽ là vô địch vỏ lâm nên ai cũng khao khát muốn chiêm giữ lấy. Dư Thương Hải chưỡng môn phái Thanh Thành chuẩn bị đánh Phuc Oai Tiêu Cục để chiém đoạt bí kiếp nên Nhạc Bất Quần sai con gái là Nhạc Linh San cùng với đệ tử thứ nhì là Lao Đức Nặc mở quán rượu gần đó để thứa cơ " ngao cò tranh nhau " ra tay chiếm đoạt bí kiêp ( âm mưa thứ nhât của Quân tử kiếm ). Y cũng biết rằng đệ tử thứ hai của mình là Lao Đức Nặc là gián điệp của Chưỡng môn phái Tung Sơn là Tả Lãnh Thiền cài vào hàng ngũ phái Hoa Sơn để dò la tin tức, (Tã Lãnh Thiền cũng có tham vọng làm Minh Chủ Vỏ Lâm như Nhạc bất Quần ) , nhưng ông ta giả vờ như không biết để " tương kế tựu kế " về sau nầy ( âm mưu thứ hai của Quân Tử Kiếm ) .Khí phái Thanh Thành đánh tan Phước Oai Tiêu Cục bắt vợ chồng Lâm Chấn Nam về núi tra khảo nơi cất của bộ Tịch Tà Kiếm Phổ thì y cho người theo dỏi để thừa cơ ra tay trước ( âm mưu thứ ba của Quân tử Kiếm )

Đại đệ tử của Nhạc Bất Quần là Lệnh Hồ Xung một người kiếm pháp, vỏ công thâm hậu, tính tình rất phóng khoáng thẳng thắn , có những suy nghĩ khác sư phụ là phân biệt chính tà rỏ ràng, trong tà có chính, trong chính có tà tuỳ con người chứ không ai không thuộc chính phái đều là tà cả. Chính vì vậy Lệnh Hồ Xung giao du với tất cả những người theo Xung là chính mặc dù họ ở trong "tà giáo"

Một hôm , Lệnh Hồ Xung nghe được tấu khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ của hai tiền bối chính và tà giáo cùng hoà đàn với tiêu là Lưu Chánh Phong của (chính giáo ) phái Hằng Sơn và Khúc Dương trưỡng lão của Ma Giáo. Họ đã tặng cho Lệnh Hồ Xung hai bộ cầm phổ, tiêu phổ Tiếu Ngạo Giang Hồ và được gởi lời di chúc của Lâm Chấn Nam trước khi chết ( vì biết Lệnh Hồ Xung là chính nhân quân tử thực sự nên ông bà tin tưỡng ) : " Xin Lệnh Hồ hiền điệt báo cho con tôi là Lâm bình Chi ,dưới hầm một căn nhà cũ ở ngõ Hướng Dương có vật gì đó của tổ tiên nhà họ Lâm truyền lại cần phải giữ gìn cẩn thận .Trong đó có lời di chúc là con cháu đời sau bất cứ ai cũng không được mỡ ra xem nếu không sẽ có tai họa ghê gớm " Vật gì đó chình là bí kiêp Tịch tà Kiếm Phổ một kiếm phổ vô địch vỏ lâm nhưng cũng độc ác nhất thiên hạ là người luyện kiếm muốn đạt kiếm pháp thưọng thừa thí phải tự thiến mình ( cắt đứt đường sinh dục như thái giám ) .

Lâm bình Chi con trai Lâm Chấn Nam trên bước đường đi tìm cha mẹ bị các phe phái tấn công để khai thác tìm ra chổ giấu bí kiêp, thừa cơ đó, Nhạc Bất Quần ra tay cứu giúp, nhận y về làm đệ tử để lơi dung tình thầy trò sau nầy tìm ra nơi cất giấu của Tịch Tà Kiếm Phổ từ Lâm Bình Chi .( âm mưu thứ tư của Quân Tử Kiếm ) .Vì Lệnh Hồ Xung tánh tình khẵng khái, phóng khoáng thường ngao du với những nhân vật chính phái lẫn tà phái nên Nhạc Bât Quần ra lệnh giam đại đệ tử trên núi Ngọc Nữ Phong .Tai đây Lệnh Hồ Xung tình cờ học được Hoa Sơn Kiếm Pháp và Độc cô Cửu Kiếm cũa sư thúc tổ là Phong thanh Dương tiền bối truyền day. Chiêu thức kiếm nầy là dùng kiếm tông như nước chảy mây trôi khắc chế loại thế kiếm dùng khí công căn cứ vào nội công như của Nhạc Bất Quần

Nhạc bất Quần biết được rất tức giận vu cáo cho Lệnh Hô Xung lấy Tich Tà Kiếm Phổ của nhà Lâm Bình Chi, sai đệ tử thứ hai là Lao Đúc Nặc canh giữ Lệnh Hồ Xung. Sở dĩ y sai Lao Đức Nặc canh giữ Xung vì biết y la gián điệp của Tả Lãnh Thiền chưỡng môn phái Tung Sơn nên giã vờ tạo bộ Kiếm Phổ giả cho Lao Đức Nặc đánh cắp mang về cho Tã Lãnh Thiền .Thực sự ra Nhạc Bất Quần đã lấy được bộ Tịch Tà Kiếm Phổ thât ( âm mưu thứ năm của Quân Tữ Kiếm ) và y đã tự thiến để học . Sau khi thành công âm mưu làm bộ bí kiếp giã cho Lao Đức Nặc mang về , Nhạc Bất Quần trục xuất Lệnh Hồ Xung ra khỏi phái Hoa Sơn đuổi xuống núi ..

Bộ Tich Tà Kiếm Phổ thật có ghi " Võ lâm xưng hùng, Dẫn đao tự cung " nghĩa là muốn xưng hùng vỏ lâm phải tự thiến mình ( cắt bộ phận sinh dục đàn ông ), đó là cái tai họa ghê gớm mà quyển bí kiếp đã ghi rỏ cấm con cháu không được học , Nhưng bộ Tịch tà kiếm phổ giả mà Lao Đức Nặc đánh cắp giao cho Tã Lãnh Thiền do Nhạc Bất Quần chế ra lại không ghi câu nầy nên y học mãi mà không phát huy tác dụng cao . Còn Nhạc Bất Quần vì tham vọng làm minh chủ vỏ lâm nên y đã tự thiến mình mặc dù y chỉ có một con gái là Nhạc Linh San , y chấp nhận phạm tội bất hiêu " Bất hiếu hữu tam , vô hậu vi đại " ( có ba điều bất hiếu , không có con trai nối dõi là bất hiêu lớn nhât ).

Lệnh hồ Xung bị sư phụ Nhạc Bất Quần đuổi khỏi phái Hoa Sơn, Xung lang thang kết bạn với nhiều người chính và tà phái, trong đó có cô bạn gái Nhậm Doanh Doanh con gái của giáo chủ Triều Dương Thần Gíáo thuộc phe "ma giáo ". Một hôm Lệnh hồ Xung bị kẻ ác tập kích đánh lén nên bi thương trầm trọng , Nhậm Doanh Doanh phải cõng Lệnh Hồ Xung lên chùa Thiếu Lâm nhờ các nhà sư điều trị , chấp nhận cho họ giam, cầm tù bản thân mình để cứu Lệnh Hồ Xung .Khi Lệnh hồ Xung hết bệnh , Xung thấy tình cảm của Doanh Doanh đối với mình quá cao thượng nên tìm cách cứu Doanh Doanh ra khỏi Thiếu Lâm Tự , Lệnh hồ Xung vận động bạn bè kéo lên Thiếu Lâm Tự đòi thả Doanh Doanh ra . Thiếu Lâm Tự cầu viện phe chính phái giúp đở trong đó có Hoa Sơn, Tung Sơn Lệnh Hồ Xung buộc lòng phải giao đấu với sư phụ là Nhạc Bất Quấn để cứu Doanh Doanh . Lệnh hồ Xung dùng Độc cô cửu kiếm chống lại Hoa Sơn Kiếm Pháp của Nhạc Bât Quần và thắng sư phụ.. Nhạc Bất Quần thấy đại đệ tữ quá tài giỏi, và y cũng có những mưu kế sau nầy nên dụ Lệnh Hồ Xung gia nhập lại phái Hoa Sơn và hứa gả con gái là Nhạc Linh San cho Xung Nhưng Lệnh hồ Xung biết âm mưu của sư phụ nên từ chối khiến Nhạc Bất Quần tự ái dùng kiếm pháp khí tông đánh kiêm pháp kiêm tông của Lệnh Hồ Xung .Lệnh hồ Xung nghĩ tình thầy trò trước đây nên không chống trả .Nhạc Bât Quần tức giận đá Lệnh hồ Xung nhưng y lại té làm gãy xương chân.. Đây thực ra là một màn kịch của Nhạc Bất Quần vi y biết trân đấu có Tả Lãnh Thiền ( chuởng môn phái Tung Sơn ), là kẻ thù tranh bá sau nầy của y đứng coi nên khi y đá vào Lệnh Hồ Xung nhưng lén vận công tự làm gãy xương chân của mình để đổ thừa cho Lệnh Hồ Xung đánh sư phụ tàn nhẩn, bôi lọ Lệnh Hồ Xung là phản đồ .Vì có mặt Tã Lãnh Thiền nên Nhạc Bất Quần không tiện dùng Tịch Tà Kiếm, Phổ để đánh Lệnh Hồ Xung mà phải giã vờ dùng "khổ nhục kế " yếu sức bị gãy xương để cho Thiền xem thường y mà không đề phòng , sau nầy quả nhiên Tả Lãnh Thiền mắc mưu nầy của y nên bị đánh mù mắt ,thật là một âm mưu hiểm độc ( âm mưu thứ sáu của Quân Tử Kiếm )

Những âm mưu đó của Nhạc Bất Quần đã qua mặt nhiều người, chỉ có vợ của y la Ninh Trung Tắc biết , bà cũng biết Nhạc Bất Quần đã tự thiến để học Tịch Tà Kiếm Pháp vì từ lâu y đã tránh chuyện gối chăn với bà . Vi tự thiến nên Nhạc Bất Quần dần dần thay đổi tiếng nói trở thành eo éo như phụ nử, râu lại rụng mà không mọc lại,. hành động yểu điệu như người phụ nử không giống người đàn ông nửa .Bà Ninh Trung Tắc rất buồn vì chồng tham vọng làm Vỏ Lâm Minh Chủ Vỏ Lâm mà hy sinh hạnh phúc gia đình nên bà khuyên y từ bỏ đừng luyện Tịch Tà Kiếm Phổ , vu cáo Lệnh Hồ Xung nửa . Nhạc Bất Quần giã vờ nghe lời vợ quăng tấm áo cà sa có ghi cách luyện Tịch Tà Kiếm Phổ xuống núí trước mặt vợ cho bà yên lòng , nhưng thực ra y dự định sẽ lén vợ ra nhặt lại và không cho bà Tắc biết ,.( âm mưu thứ bảy của Quân Tữ Kiếm ) Sáng hôm sau y ra khe núi định nhặt lại áo cà sa ghi chép kiếm phổ nhưng có người đã nhặt mất . Người nhặt chính là Lâm Bình Chi con của Lâm chấn Nam mà trước đây y đã nhận về làm đệ tử . Đã từ lâu Lâm Bình Chi nghi ngờ sư phụ đã lấy được Tịch Tà Kiếm Phồ cũa gia đình mình nên y âm thầm theo dỏi, Khi thấy Nhạc Bất Quần quăng tấm áo cà sa xuống núi Chi đã nhanh tay nhặt trước. Được kiếm phổ Lâm Bình Chi vì nóng lòng muốn trả thù cho cha mẹ nên y đã tự thiến mình học ngấu nghiến môn kiếm thượng thừa quái ác nầy .Nhạc Bất Quần cũng nghi ngờ Lâm bình Chi lấy bí kiếp nên ông ta dùng một âm mưu rất độc là kêu Chi vào vào gã con gái là Nhạc Linh San cho Chi. Sau đêm tân hôn Nhạc Bất Quần tìm gặp riêng con gái và hỏi Nhạc Linh San tối qua có hạnh phúc không ? .Dĩ nhiên Lâm Bình Chi khi nhặt được bí kiếp y đã tự thiến thành thái giám rồi thì làm sao thực hiện nghĩa vụ người chồng trong đêm động phòng hoa chúc được,. Tuy nhiên vì muốn giữ thể diện nên Nhạc Linh San nói dối với cha là rất hạnh phúc, lời nói dối nầy đã gúp cho Lâm Bình Chi không bị Nhạc Bất Quần giết chết vì Nhạc Bất Quần nghĩ Lâm Bình Chi không phải là người nhặt được bí kiếp, vì nếu nhặt được thì y đã tự thiến mình rồi , đâu còn gì để ân ái với Nhạc Linh San trong đêm động phòng ( âm mưu thứ tám của Nhạc Bất Quần ) .

Chuyện kết thúc bằng một cuộc đọ sức giữa năm phái để tìm người giỏi ra làm Minh Chủ Vỏ Lâm trên núi Tung Sơn , sau rốt chỉ còn Tả Lãnh Thiền và Nhạc Bất Quần quyết đấu . Tả Lãnh Thiền sử dụng chiêu thức trong Tịch Tà Kiếm Phổ giã , còn Nhạc Bất Quần sử dụng chiêu thức Tịch Tà Kiếm Phổ thật , Tả lãnh Thiền có ý xem thường địch thủ về nội công vì trước đây y đả chứng kiến tân mắt Nhạc Bất Quần đã đá Lệnh Hồ Xung một cái mà gãy xương chân ( đây là một mưu kế khổ nhục mà Nhạc Bất Quần đã thực hiện để gạt Tả Lãnh Thiền ). nên y đã bị Nhạc Bất Quần dùng Tịch Tà Kiếm Pháp thật đâm cho mù mắt. Chừng đó vỏ lâm mới vở lẻ là Nhạc Bất Quần đã chiếm được bí kiếp Tịch Tà kiếm Phổ từ lâu và âm thầm luyện tập , chiếc mặt nạ Nguỵ quân tử của y đã rơi . Sau cùng Nhạc Bất Quần cũng lên làm bá chủ vỏ lâm . Lệnh Hồ Xung sau đó lên làm chưỡng môn phái Hắng Sơn, cùng Nhậm Doanh Doanh yêu nhau .Nhạc Bất Quần thấy Lệnh Hồ Xung cũng là một chưỡng môn chính phái nên ông ta săn đón niềm nở không như lúc đuổi Lệnh Hồ Xung ra khỏi phái Hoa Sơn . Nhậm Doanh Doanh lúc đó mới nói nhỏ bên tai Lệnh Hồ Xung nhận xét về Nhạc Bất Quần chỉ ba tiếng : " Ngụy Qiuân Tử ".

Nhạc Bất Quần về sau bị biến thái giới tính nên điên điên khùng khùng bỏ vợ, bỏ con. Tịch Tà Kiếm Pháp của y vì vậy kém hiệu lực, đánh không lại Độc Cô Cữu Kiếm của Lệnh Hồ Xung . Y bị Nhậm Doanh Doanh bóp miệng nhét vào viên thuốc Tam Thi Nảo Thần Đan là thuốc độc khống chế người khác của Triều Dương Thần Giáo để khỏi tuyên truyền bêu rếu Lệnh Hồ Xung Sau cùng y bị tiểu ni cô Nghi Lâm giết chết . Còn Lâm Bình Chi bị biến thái nên hoá điên loạn, giết vợ là Nhạc Linh San , y bi đánh mù mắt nên được Lao Đức Nặc dẫn về Tung Sơn cùng sống với Tả Lãnh Thiền , hai kẻ tham vọng vi Tịch Tà Kiếm Phồ thành hai kẻ mù đui sống cho hết chuổi ngày tàn .
C- BÌNH LUẬN ENTRY :

TIẾU NGẠO GIANG HỒ là một truyên vỏ hiệp hay, lôi cuốn , dẩn độc giả mới đầu đi từ cái giản dị nhất rồi sau đó những nút thắc dần dần hiện ra dẫn người đọc như đi vào một mê cung Những cái mê đồ đó Kim Dung đã rất khéo léo xây dựng với từ những kết quả chuẩn bị có sẩn để tạo những gút mắt ban đầu chưa có sẳn để người đọc càng ngày càng cảm thấy muốn được biết kết quả nút thắc đó là gì ? giải quyết ra sao. Tiểu thuyét Kim Dung có cái hay là đọc một trang ta phải lần đọc trang thứ hai và tiếp tục như thế cho đến hết cuốn dù là vài trăm trang . Thú thật từ nhỏ tôi đã mê đọc tiễu thuyết kiếm hiệp Kim Dung đến bỏ ăn bỏ ngũ vì lối viết truyện rất hấp dẫn của ông. TIẾU NGẠO GIANG HỒ là một truyện viết rất có hậu, kẻ gieo gió thì phải gặt bảo, người hiền lương thì được trời đất thương xót ban phước lành. Nhưng chủ đề mà tôi muốn nói về quiyển sách nầy là chữ NGỤY, tức là giã trá nham hiểm của lòng người . Nhạc Bất Quần một nhân vật tiếng tâm, có thực tài, thông minh xuất chúng, lại là chưỡng môn một chính phái đức cao trọng vọng , Thay vì dùng sự thông minh đó để làm những lợi ích cho vỏ lâm nhưng y lại đi lệch đường ,. mưu đồ lợi lộc cho cá nhân, khát vọng làm Minh Chủ Ngũ Nhạc Kiếm Phái đến nổi y đã không từ bỏ thủ đoạn nào để thực hiện y đồ. Với tham vọng cuồng điên đó , y đã hy sinh tất cả danh dự, người thân gia đình , đệ tử và ngay chính bản thân mình để rồi có một kết cục thãm hại . Suốt câu truyện , càng đọc tôi càng thấy kinh tởm cho một con người có những âm mưu hiểm độc, nắm bắt thời cơ rất tài tình để nguỵ tạo những hoàn cảnh lừa đảo, khiến người thông minh nhất cũng phải nhầm lẫn .Ở đây chúng ta cũng rút ra được một bài học là những con người học cao ,có tài, có cái bề ngoài đức cao trọng vọng,một khi họ trở lòng mà không biểu hiện ra mặt thì rất khó đối phó, mà khi họ ra mặt thì mọi việc đã muộn , phần thua sẽ thuộc về người bấy lâu đã tin tuỡng họ.

Nhân vô thập toàn , dù Nhạc Bất Quần có thông minh cở nào tôi vẫn còn thấy y còn hai khuyết điểm mà chắc có lẻ Kim Dung cố tình bỏ trống để gỡ những nút thắc mà ông đã thắc lại chung quanh nhân vật Nhạc Bất Quần , Đó là sau khi gã con gái là Nhạc Linh San cho Lâm Bình Chi, với mục đích là kiểm tra coi Chi có phải là người đã nhặt được Tịch Tà Kiếm Phổ hay không ( vì khi nhặt được, muốn học môn kiếp pháp đó ,Lâm bình Chi phải tự thiến mình như thái giám nên không thể "hành sự " đêm động phòng hoa chúc được ) nên y hỏi con gái là : đêm tân hôn con có Hạnh Phúc không " , mà quên rằng tâm lý của một người con gái sau đêm đó không ai dám nói thật những vấn đề phòng the cho ai biết dù là cha ruột mình, hơn nửa lại là một người khác phái . Nhạc Linh San đã nói dối cha là : " Con hạnh phúc " mà Nhạc Bất Quần vội tin ngay thì đúng y quả là sơ hở,mất cảnh giác của một tay ma đầu hiểm độc . Phải chi y nhờ vợ với tư cách là mẹ của Linh San hỏi con thì chắc chắn San đã khóc lóc nói thật với mẹ là Chi đã thành " thái giám " , vì người mẹ là người cùng phái ,dể cho người con gái tâm sự những điều thầm kín nhất . Thứ hai là khi vợ mình phản đối chuyện luyện tập Tịch Tà Kiếm Phổ sao Nhạc Bất Quần không đốt chiếc áo cà sa trước mặt vợ, vì dù sao y cũng đã học rồi (nên đánh Tả Lảnh Thiền chưỡng môn phái Tung Sơn mù mắt ) mà quăng xuống núi làm gì, sao y không nghĩ có người sẽ lượm được, nhất là Lâm Bình Chi chủ nhân thực sự của bộ kiếm pháp vẫn còn trên núi Hoa Sơn .Hơn nửa Nhạc Bất Quần đã .làm được bí kiếp giả thì tại sao y lại không làm một bí kiếp gỉa khác để gạt vợ mình ?

Tóm lại TIẾU NGẠO GIANG HỒ với hai nhân vật : "Ngụy QuânTử Kiếm " Nhạc Bát Quần và người đại đệ tử Lệnh Hồ Xung là hai thái cực đối kháng, với bộ truyện nầy Kim Dung đã nói lên rằng cuộc đời ta cũng không nên nhìn vào cái bề ngoài quá của một con người mà phán đoán cái tâm của họ. Con người nhiều khi trong giai đoạn nầy có thể họ tốt , nhưng những giai đoạn khác họ cũng có thể biến thành người xấu . Khi bắt gặp một vấn đề gi ta phải bình tỉnh xem thực hư ra sao , nếu cần phải kiểm chứng để khỏi rơi vào cái bẩy của những Nguỵ Quân Tử còn dẫy đầy trên thế giới nầy .

HUY THANH

http://thuvienaudio.net/main/viewtopic.php?f=28&t=3827

ĐỌC BỐN MƯƠI NĂM NÓI LÁO CỦA VŨ BẰNG

Vũ Bằng sinh năm 1914, mất năm 1984, năm nay là 95 năm ngày sinh và 25 năm ngày mất của ông. Thắp một nén nhang tưởng nhớ đến ông, càng suy ngẫm về ông, về những tác phẩm của ông để lại ta càng phát hiện ra thêm nhiều bài học bổ ích…

Vũ Bằng quê gốc ở Hải Dương, mảnh đất vốn được mệnh danh là “địa linh nhân kiệt”. Sinh ra trong một gia đình Nho học nổi tiếng, Vũ Bằng đã đứng vững trên mảnh đất Việt giàu văn hiến để tiếp thu một cách sáng tạo những tinh hoa của văn hóa phương Tây trong “cuộc biến thiên vĩ đại” của lịch sử văn hóa dân tộc. Từ nhỏ đã theo học trường Albert Sarraut - một trường trung học của người Pháp nổi tiếng toàn Đông Dương thời đó, Vũ Bằng đã nhanh chóng tiếp cận văn hóa phương Tây và nghề viết báo – một nghề hoàn toàn mới lạ đối với trí thức Việt Nam hồi đó. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường – 16 tuổi – Vũ Bằng đã say mê viết văn, viết báo và đã là cộng tác viên thường xuyên của những tờ báo nổi tiếng lúc đó như tạp chí Hữu Thanh và nhật báo Trung Bắc Tân văn .Cũng thời gian này, Vũ Bằng đã trinh làng tập tùy bút châm biếm Lọ văn – được người đọc đương thời xếp ngang hàng với Essais cuả nhà văn Pháp Montaigne. Theo nhà báo Thượng Sĩ, người bạn chí cốt của Vũ Bằng thì tác phẩm của Vũ Bằng đã được in ra mới có khoảng hai chục cuốn gồm đủ các loại: tùy bút, phóng sự , truyện dài, truyện ngắn, dịch thuật, hồi ký, khảo luận. Nhưng tác phẩm của Vũ Bằng nếu được tuyển chọn, thu thập những cái đã đăng rải rác trên khắp các báo chí suốt gần nửa thế kỷ thì ít nhất cũng được khoảng một trăm cuốn nữa… Có thể nói, sức viết của Vũ Băng thật là lớn…

Kết thúc tập sách Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng đã có những lời thật tâm huyết, “thật là Vũ Bằng”: “Tôi biết rằng nếu một ngày kia, Trời xử phiên án cuối cùng, hỏi tôi nếu cho trở lại làm người thì sẽ làm gì, tôi cũng sẽ nói không cần suy nghĩ gì hết và chỉ trả lời một câu: Người mẹ nào sinh ra con lại chẳng muốn cho con sau này ăn nên làm ra, có vai có vế, nhưng mẹ ơi, con đành chịu tội bất hiếu với mẹ: nếu trở lại làm người, con cứ lại xin làm báo!”

Chỉ với hai cuốn sách Thương nhớ mười hai và Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng đã hoàn toàn chinh phục người đọc và khẳng định được vị trí độc đáo của mình trong làng văn, làng báo từ những năm ba mươi đến những năm bảy mươi. Có thể dẫn lại đây lời nhận xét của nhà báo Thượng Sỹ về cuốn “Bốn mươi năm nói láo” mà theo như nhiều nhà phê bình kỳ cựu thì đó là nhận xét khá chính xác:

“Với một lối diễn tả giản dị, thân mật, chan chứa tính cách trào lộng, Vũ Bằng đã phác lại thật độc đáo, thật linh động, những khuôn mặt của mấy thế hệ làm báo, những nhân vật nổi danh một thời, đã làm lịch sử, và đi vào lịch sử, hoặc chết đi, hoặc còn sống, hiện có mặt ở đây hay nơi khác. Những nhân vật này lần lượt xuất hiện mỗi người hiến cho độc giả một vài mẩu chuyện vui có, buồn có, nhưng thật mới lạ. Cho nên có thể nói, đọc “Bốn mươi năm nói láo” chẳng khác đọc lịch sử báo chí xứ này trong vòng già nửa thế kỷ 20”.

Đó chính là nói về biệt tài viết chân dung nhân vật của Vũ Bằng. Thể loại Chân dung văn học là hoàn toàn mới trong làng văn làng báo VN. Vì thế, có thể nói rằng, Vũ Bằng chính là một trong những người đi tiên phong trong thể loại chân dung văn học với những trang viết độc đáo về những nhà báo, nhà văn VN đầu thế kỷ như: Nguyễn Văn Vĩnh, Phùng Tất Đắc, Ngô Tất Tố, Vũ Đình Long, Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Thâm Tâm, Thanh Châu, Nguyễn Tuân, v.v… Chẳng hạn như những đoạn về Vũ Trọng Phụng viết như thế này:



“Vũ Trọng Phụng không bao giờ có thời giờ để viết quá mười trang giấy. Cứ gần đến ngày phải nạp bài cho Hà Nội báo – tiểu thuyết Giông tố bắt đầu viết từng kỳ trên báo này – Vũ Trọng Phụng lại ngồi ì ra một đống, hút thuốc lào và hỏi ầm lên có ai biết kỳ trước Giông tố đã viết đến đoạn nào rồi không. Chẳng ai trả lời cả, bởi vì chẳng có ai đọc Giông tố hết. Vũ Trọng Phụng chán đời hết sức, đành phải đi tìm Hà Nội báo để đọc xem mình đã viết đến câu gì, bấy giờ mới phủ phục xuống giường như con voi viết tiếp, mắt hiếng hẳn đi mà lưỡi thì lè ra như lưỡi con thằn lằn, có khi vừa viết vừa chửi thề sao mình lai khổ đến thế này, cứ phải viết mới có tiền sanh sống. Bây giờ Phụng đã ra người thiên cổ; nhắc đến anh, người ta thường kể lại một câu nói của anh: “Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bí tết để ăn thì đâu có phải chết non như thế này!”. Và một đoạn văn khác nói về phong thái Vũ Trọng Phụng:

“Về sau này, Vũ Trọng Phụng mòn mỏi đi, một phần lớn cũng là vì thức đêm thức hôm để viết cho nhiều báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Tiểu thuyết thứ năm, Hà Nội tân văn, lấy tiền, nhưng cuộc sống của anh ở bên ngoài đối với những người lạ, không có vẻ gì vất vả; trái lại, anh lại ra cái dáng nhàn nhã, ung dung là khác. Dù bận rộn viết lách đến mấy đi nữa, tuần nào anh cũng đọc hàng chục tờ báo Pháp để học thêm. Trong anh em, có thể nói anh là người hiểu rõ tinh thần của giọng văn “Canard Enchainé” nhất, mà anh cũng am hiểu nhất chính trị ở nước Pháp và thế giới lúc bấy giờ”.

Vũ Bằng không chỉ đa tài, đa năng trong cái nghiệp “viết lách” mà ông còn là một nhà biên tập mẫu mực của làng báo. Sự ảnh hưởng của ông đến độc giả và những nhà văn, nhà báo tương lai không chỉ bằng tác phẩm mà bằng cả phong cách làm việc của ông trong 40 mươi năm làm việc cho nhiều tờ báo. Ông có “con mắt tinh đời”và tấm lòng nhân hậu nên đã nhanh chóng phát hiện chính xác những khả năng còn mới đang nhú mầm và đã tận tình chăm sóc, nuôi dưỡng nó. Nói dài về điều này e không hay nên chỉ có thể “tóm lại” bằng cách dẫn lại đây lời nói của nhà văn Lý Văn Sâm – một nhà văn “chuyên viết truyện đường rừng” nổi tiếng của làng văn Sài Gòn: “Nếu không có Vũ Bằng thì cũng không có nhà văn Lý Văn Sâm!”.



Đỗ Ngọc Thạch  


http://thuvienaudio.net/main/viewtopic.php?f=28&t=4237 

ĐỌC LẠI LÊ UYÊN PHƯƠNG

Lê Hữu
________________________________________


“Hãy ngồi xuống đây, trên lưng cuộc đời,
thách đố thương đau”…
LUP


Image




Tại sao không phải "nghe lại" mà là "đọc lại" Lê Uyên Phương (LUP)?

Nghe LUP thì nhiều người cũng đã từng nghe qua, từ các băng nhạc, đĩa nhạc, đến các sân khấu trình diễn. Thỉnh thoảng vẫn có những bài viết nhận định về nhạc LUP, về các buổi trình diễn, và cả về tính cách của người nhạc sĩ đã viết nên những ca khúc đó. Tôi đọc, có điểm đồng tình, có điểm vẫn còn chút nghi hoặc, và nói chung, vẫn có cảm giác thiêu thiếu một cái gì. Dường như vẫn có những điều chưa được nói đến, chưa được nói thật đầy đủ... Trong một lần tình cờ đọc lại cuốn sách cũ đó, cuốn sách duy nhất của LUP được in và xuất bản, tôi đã phần nào tìm thấy được những lời giải đáp, những câu trả lời. Ở đấy, trên những trang viết, là những nỗi niềm trăn trở, là những cảm xúc tràn bờ. Ở đấy còn là những bù đắp mà ngôn ngữ âm nhạc của LUP, dẫu có được thể hiện bằng những giai điệu đằm thắm, dẫu có cuốn hút người nghe tới đâu vẫn không chuyên chở hết được.

“Tôi muốn yêu, yêu cả cuộc đời”…

Đây chắc chắn không phải là một bài điểm sách... cũ. "Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles" (tập truyện và tùy bút LUP, nxb Tân Thư, 1990) không phải là một cuốn sách mới; tuy nhiên, nó vẫn cứ mới đối với những người chưa từng đọc nó bao giờ, hay chỉ đọc lướt qua trước đây. Nhiều cuốn sách còn cũ gấp bao nhiêu lần hơn thế nữa vẫn còn được người đời nhắc đến nhiều năm sau đó. Một bài thơ, một bài nhạc, một cuốn sách hay chẳng bao giờ cũ. Bài viết này không nhằm lập lại những điều đã từng được nói đến trước đây về LUP, người nhạc sĩ sáng tác và trình diễn ca khúc, mà chỉ muốn nói tới một LUP khác, một người viết văn đã có lúc phơi trải lòng mình lên những trang giấy.

Tôi đã gặp cuốn sách đó ngay từ những ngày đầu đặt chân lên đất nước này, nhưng thực tình là tôi đã không chú ý đến nó lắm. Tôi chỉ cầm cuốn sách lên, ngắm nghía cái bìa sách, rồi bỏ xuống. (Một trong những bìa sách đẹp nhất của Khánh Trường). "Anh chàng viết nhạc này bây giờ lại quay sang viết văn, làm thơ," tôi nghĩ. Thực tế cho thấy, một tác giả thành công ở một lãnh vực văn hóa nghệ thuật, khi nhảy sang một lãnh vực khác thường hiếm khi gặt hái được sự thành công tiếp theo. Sự tin tưởng vào thực tế ấy đã khiến tôi (và chắc là không ít người) có chút ân hận về sau này là đã bỏ lỡ cơ hội để hiểu thêm được về anh sớm hơn, để thấy được còn có những gì phía sau những đường kẻ nhạc, phía sau những ca khúc người nhạc sĩ đã hát lên bằng cả tâm hồn trước đám đông người nghe, những ca khúc một thời làm lay động lòng người. Mãi đến nay, tôi mới có dịp cầm lại cuốn sách đó, đọc lại từng trang, từng dòng, từng câu, từng chữ... Những dòng chữ vẫn nằm im trên những trang sách tự thuở nào, vậy mà tôi tưởng như mới được trông thấy lần đầu.

Có lẽ cũng nên nói qua ít hàng về nhạc LUP. Tôi nhớ đã từng nghe nhạc của anh từ lâu lắm, đâu từ những năm sáu chín, bẩy mươi thì phải. Giữa những năm mà loại nhạc trẻ, nhạc kích động ồn ào trên những sân khấu trình diễn, những ca khúc da vàng máu đỏ thi nhau rên rỉ, than vãn về thân phận đất nước, về quê hương chiến tranh trong những phòng trà, những quán café, thì dòng nhạc của anh lại lặng lẽ tách riêng một nhánh khác. Tình yêu trong nhạc của anh mang bộ mặt hoàn toàn khác lạ. Trong những lời nhạc của anh thuở đó, người ta nghe thấy những vũng lầy, những vực sâu, những cơn đau, những cơn say, những da thịt, những bàng hoàng, rồi sau đó là những ê chề, những héo hon, những vội vàng, những muộn màng... Khi tất cả những thứ đó trộn lẫn vào nhau, người nghe nhận ra được LUP. Tình yêu trong nhạc của anh vừa có những ray rứt, khắc khoải, lại vừa có những ngấu nghiến, hừng hực như vậy. Nhạc của anh không giống ai, và cũng không ai... giống anh. Cả lối trình diễn, cách thể hiện của Lê Uyên và Phương cũng đặc biệt, cũng không giống ai. Nghe Lê Uyên và Phương hát, ta nghe những tiếng hát đan quyện, quấn quýt, ôm riết lấy nhau, đeo bám vào nhau tưởng như không thể tách rời, không tài nào rứt ra được. Họ hát "hết mình", như thể chỉ hát cho họ, không phải hát cho khán giả, không biết tới khán giả trước mặt. Vậy mà khán giả vẫn tán thưởng, vẫn cứ chăm chú lắng nghe họ. Thật kỳ lạ. Và người nhạc sĩ đã làm nên những ca khúc ấy, anh là ai? Tôi luôn bị thôi thúc bởi ý tưởng muốn biết được những gì ở phía sau con người nghệ sĩ vẫn ôm đàn hát một cách say sưa mỗi lần xuất hiện trên sân khấu đó. Anh suy nghĩ ra sao? Con người thật của anh như thế nào? Cái gì đã làm nên những ca khúc của anh? Tôi vẫn cho là người ta khó mà có thể hiểu hết được tính cách con người đó nếu chưa từng đọc qua cuốn sách của anh (và những gì khác nữa anh đã viết, tôi không được rõ). Tất nhiên, không đơn giản đọc một cuốn sách là hiểu được một con người, nhưng dẫu sao qua những trang viết của tác giả LUP, độc giả của anh cũng "đọc" được ở người viết một đôi điều.

Cuốn sách ấy là một tập truyện và tùy bút. Tại sao lại "không có mây trên thành phố Los Angeles"? Bầu trời trong xanh lắm sao? Quả có như vậy. Trong một lúc nào đó, nhìn ra ngoài ô cửa, anh đã trông thấy bầu trời không gợn một chút mây nơi thành phố anh hiện đang sống, thật khác hẳn với cái "thành phố nhỏ nhoi đầy mây trắng và sương mù (1)" rất xa xôi trong trí tưởng của anh. Cái thành phố nhỏ nhoi mà đầy ắp kỷ niệm ấy vẫn luôn luôn ở một góc nào đó trong trái tim anh. Thực ra thì có gì khác nhau đâu giữa bầu trời này và bầu trời kia. Đâu cũng chỉ là một bầu trời. Khi thì trong vắt, khi thì dày đặc mây mù. Chỉ là anh tưởng tượng ra cái khác nhau đấy thôi. Có khác chăng là sự khác biệt giữa thành phố xa lạ mà anh đang sống và thành phố thân quen ngày xưa, nhưng thay vì nói về những khác biệt giữa hai thành phố đó, anh lại nói đến cái khác biệt giữa hai bầu trời để từ đó liên tưởng đến thành phố kỷ niệm của anh. Trong những dòng chữ anh viết luôn luôn thấp thoáng những nỗi niềm hoài niệm quá khứ. Hãy đọc thử một đoạn:

"Lúc đó hắn đang nhìn lên bầu trời của thành phố Los Angeles và chợt nhận ra là chưa bao giờ hắn nhìn thấy những đám mây trắng bay lượn trên đó như hắn đã luôn luôn nhìn thấy những đám mây trắng bay lượn trên thành phố nhỏ thân thuộc xa xôi của hắn...(1)"

Thành phố nhỏ nào vậy? Đó là thành phố với "những quán cà phê, những vũ trường, những thung lũng, những hồ, những đồi, những thác, những con đường dốc, những hàng thông xanh, những cánh đồng đầy hoa vàng, những con đường ngoằn ngoèo len lỏi giữa các biệt thự yên lặng, bí mật, trữ tình (1)". Đó chính là cái "thành phố đầy mây trắng và sương mù của hơn hai mươi năm về trước (1)".

Anh yêu biết bao thành phố ấy, yêu biết bao những mảng quá khứ ấy, như đã yêu biết bao những hình ảnh xa xưa của sân trường kỷ niệm, như đã thiết tha yêu cuộc đời, yêu loài người. Nỗi niềm thương yêu ấy từng được anh đưa vào trong câu hát:

Tôi muốn yêu. Tôi muốn yêu, yêu cả cuộc đời
Tôi muốn tin. Tôi muốn tin, tin cả loài người
như ngày xưa, yêu sân trường, lớp học
yêu thầy, yêu bạn, yêu anh, yêu em…
(Tôi Muốn Tin, Tôi Muốn Yêu Cuộc Đời)

Anh đã mơ mộng biết chừng nào, tâm hồn anh tràn đầy những ước mơ. Đó là tâm hồn gần gũi với thiên nhiên, hòa cùng tiếng đồng vọng của đất trời, của tiếng suối reo, của hơi gió thoảng, của cơn mưa bất chợt.

"Tôi nghe bầu trời, tôi nghe cây cỏ, núi đồi, tôi nghe xúc động trong tôi, tôi nghe xúc động trong người cùng lúc với những gì tôi nhìn thấy chúng (2)".

Tình yêu đôi lứa trong những bài tình ca của anh luôn luôn đan quyện với tình yêu thiên nhiên, với những trăng sao, nắng gió, mưa bão...

Ngày em thắp sao trời
chờ trăng gió lên khơi
mà mưa bão tơi bời
một ngày mưa bão không rời

Trên đôi môi thanh xuân
ướp hôn nồng bên gối đắm say
ánh sao trời theo gió rụng rơi đầy…
(Dạ Khúc Cho Tình Nhân)

Tình yêu như mật ngọt trong những câu hát đó. Tôi đã nghe lại tình khúc này bằng cảm giác lâng lâng, bằng rung động dạt dào đượm chất men tình ái. Nếu đời sống luôn luôn được vỗ về bởi những bài tình ca nồng nàn như vậy thì nhạc LUP quả là đáng yêu biết chừng nào, và người nhạc sĩ của chúng ta sẽ mang hình ảnh chàng "nghệ sĩ với cây đàn" đi gieo rắc những lời ngợi ca tình yêu cho người người khắp nơi, khắp chốn. Trong một truyện ngắn, LUP cũng đã bày tỏ điều này khi mượn lời người cha nói với đứa con để giải thích về ý nghĩa những buổi trình diễn của anh:

"Hình ảnh của ba má với cây đàn dưới ánh đèn màu và trong âm điệu đằm thắm của những bài tình ca đã gây cho khán giả cái cảm giác: tình yêu không phải là một ước mơ mà là một cái gì có thật. (3)"

Anh mơ làm loài chim hiền, hót mãi những lời yêu thương ngọt ngào, mang tin vui đến cho mọi nhà.

Tôi đang làm một con chim giữa đời
cất tiếng hát để đánh thức bình minh
những tiếng hát ngắn một giây đồng hồ
nhưng dài bằng cả cuộc đời…
(Cất Tiếng Hát Giữa Đời)


"Tôi muốn hát mãi những bài tình ca”…

Thế nhưng cuộc sống đâu có là những phút giây êm đềm, bình lặng. Đến một lúc nào đó, anh đã phải thất vọng khi lần lần nhìn ra được cái mặt trái của cuộc đời, nhìn ra được những chiếc mặt nạ giả trá che đậy những tâm địa nhỏ nhen, hèn mọn, những thói tật tham lam, ích kỷ... của người đời. Đến một lúc nào đó, những sợi dây đàn đã cứa vào những đầu ngón tay anh, làm nhức buốt trái tim anh.

Nhưng, nhưng cuộc đời khốn nạn
đã giết chết trong tôi những tình yêu đầu...
(Tôi Muốn Tin, Tôi Muốn Yêu Cuộc Đời)

Nhạc của anh đã bắt đầu có những lời nguyền rủa. Thật tội nghiệp cho anh, anh thiết tha, háo hức yêu cuộc đời. Vì yêu cuộc đời, yêu cái đẹp, nên anh cũng thù ghét cái xấu, thù ghét những trò chơi gian lận. Những cái tồi tệ, xấu xa ấy từ đâu tới làm ô nhiễm không khí những bài tình ca của anh. Những bài tình ca không chống chọi nổi những xâm phạm thô bạo đó. Anh cảm thấy mình gần như bất lực. "Tôi đã cất lời ca và cảm thấy từ trong xương tủy mình sự vô ích của những lời ca đó. (4)" Anh đau xót, phẫn nộ vì những bài tình ca đã bị dập tắt một cách phũ phàng. Và nhạc của anh bắt đầu có những chuyển hướng từ lúc đó. Không thể tiếp tục viết mãi, hát mãi những lời ngợi ca tình yêu, nhạc của anh bây giờ còn hướng tới những mục tiêu khác nữa. Anh lên án, vạch mặt, chỉ tên những kẻ phá hoại đã làm vấy mực những bản tình ca của anh, làm vẩn đục tình yêu của loài người.

"Chúng tôi đã hát về tình yêu, về những con rối, về những trò chơi, về những danh từ, về những giáo điều, về sự tin tưởng và sự mất tin tưởng... (5)"

Không chỉ viết về tình yêu, anh còn viết về những thảm trạng của của cuộc sống.

"Những bài hát tôi gởi đến các bạn hôm nay, không phải là những bài tình ca, nhưng dứt khoát nó không phải là những ca khúc chính trị, nó trình bày cho chúng ta thấy vì sao mà chúng ta đã không có tình yêu trong cuộc sống, vì sao mà những bài tình ca của chúng ta lại bị dập tắt một cách phũ phàng như vậy. (5)"

Tình yêu trong cuộc sống, cũng vẫn còn đấy chứ. Và những bài tình ca, đâu có dễ gì dập tắt được. Anh vẫn chưa mất tin tưởng. Vậy thì tình ca LUP bây giờ ở đâu?

"Ở đâu không có những âm thanh chói tai của chính trị, của giả ngụy, của tham vọng con người..., ở đó có tình ca. Ở đâu không có cái không khí của sự lọc lừa, sự phản bội, sự vị kỷ..., ở đó có tình ca. (5)"

Anh kêu gọi sự thức tỉnh của lương tri, anh kêu đòi phải trả lại những gì đã bị tước đoạt mất, "Hãy cứu lấy con tim của ta. Hãy trả lại cho những bài tình ca cái không khí trong lành của nó. (5)" Anh cũng bày tỏ lòng biết ơn về những "ân sủng của cuộc đời mà chúng tôi đã đón nhận được từ những niềm vui, những nỗi buồn, những ước mơ, và những hối tiếc không bao giờ nguôi. (6)"
Những ước mơ và những hối tiếc luôn đến cùng một lúc.

Ta mơ về một quê hương xa
Ta mơ đến một quê hương gần
Nằm ngủ trong nấm mồ
ta mơ về những gì đã mất
và nước mắt lưng tròng...
(Những Giấc Mơ Trong Cuộc Đời)

LUP có từ bỏ những bài tình ca? Không đời nào. Anh vẫn còn tiếp tục viết đấy chứ? Chắc chắn là như vậy. Vì đó là hơi thở, là hương vị ngọt ngào của đời sống, như anh vẫn nói:

"Tôi đã viết rất nhiều tình ca và tôi yêu tất cả những bài tình ca đã từng có trên trái đất này, nó như những dòng nước trong, nó chính là hy vọng của chúng ta, nó chính là ước mơ của chúng ta trong cuộc sống. (7)"

Thế nhưng những bài tình ca của anh bây giờ đã khác trước, đã mang những âm hưởng khác, đã rẽ sang một hướng khác, đã không còn là những bài tình ca một thời làm mê đắm lòng người. Đã hết rồi những mùa vui, những bầu trời trăng sao, những dòng suối trong vắt. Anh viết:

"Nếu trước đây những bài tình ca của tôi được viết từ phía này, phía của dòng nước trong; giờ đây những bài tình ca của tôi được viết từ phía kia, phía của dòng nước đục. Nếu trước đây tôi đã viết về hy vọng, thì giờ đây là thất vọng. Nếu trước đây tôi đã viết về những ước mơ, thì giờ đây là một thực tại. Nếu trước đây tôi đã viết về tình yêu, thì giờ đây là sự thù ghét... (7)"

Anh đã viết về những ước mơ. Ước mơ của LUP, đó là những gì vậy?

"Tôi đã mơ đến một chân trời mở ra bất tận, tôi đã mơ đến những hải đảo, đến những dòng sông, đến những thành phố lạ tràn ngập ánh đèn, tôi đã mơ đến những bài hát sẽ được bay xa, bay xa mãi, tôi đã mơ đến những nụ cười thân ái không xen lẫn một chút nghi kỵ, sợ hãi nào; tôi đã mơ đến một tình người thật ấm áp không pha trộn những tranh chấp hèn mọn nào của cuộc sống; tôi đã mơ đến một cuộc sống không bị khô héo vì những độc dược của chủ nghĩa, vì những đeo đuổi mỏi mòn theo cơm áo. Chúng tôi đã mơ, đã mơ, và chúng tôi đã hát, đã hát. (6)"

Anh đã hát về những ước mơ ngậm ngùi, "hát về những ước mơ đã từng có trong quá khứ, những gì thuộc về quá khứ và đã từng sụp đổ ở trong quá khứ. (3)"
Dẫu sao, còn ước mơ là còn tiếng hát. Trái tim LUP là trái tim biết yêu, biết ghét, biết cảm phục, biết khinh miệt. "Tôi muốn hát mãi những bài tình ca, vì thế mà tôi đã viết những ca khúc này...,(5)" anh nói, giải thích về sự ra đời của những ca khúc ấy. Những ca khúc nào vậy? Hãy nghe thử một đoạn:

Tôi đã ghét những tên nịnh thần bằng bông nhồi
Tôi đã cảm phục những người hùng bằng gỗ lim
Tôi đã yêu những tình nhân không trái tim
vì tôi đã biết
chính hắn đứng sau hậu trường
với mười sợi dây trên mười đầu móng tay nhọn
như phù thủy đã tạo nên mọi thảm kịch của cuộc đời…
(Tôi Đã Nhìn Thấy Trong Trò Múa Rối)

Viết lên được những dòng nhạc mới này, hát lên được những giai điệu mới này, anh thấy lòng mình yên ổn hơn, gắn bó với thực tại hơn, gần gũi với cuộc sống hơn, dòng máu chảy trong anh như được hòa nhập vào dòng máu nóng của đồng loại.

"Chúng tôi đã hát, và đã lắng nghe từ trong trái tim mình nhịp đập của trái tim đồng loại, trái tim của những con người đã bị thử thách quá nhiều bởi mọi nỗi thống khổ của quả địa cầu... Chúng tôi đã hát, và đã cảm nhận trong từng mạch máu mình sự luân lưu của máu đồng loại, dòng máu của những con người luôn luôn bị xô đẩy trong cuộc sống và đã gục chết như cỏ cây. (8)"

Trong những ca khúc LUP đã viết, có những ca khúc bộc phát từ tấm lòng thương yêu trẻ thơ, từ nỗi ước mong dựng lên được tấm lá chắn để che chở cho những khối óc non nớt, những tâm hồn trong trắng không bị vấy bùn vì những thói xấu xa, những trò chơi kém lương thiện của người lớn.

Này em bé ơi! Này em bé ơi!
đừng nghe chúng tôi chơi trò chính trị
Hãy đi rong chơi, đi đây đi đó
Hãy xếp chiếc thuyền
tìm soi hang dế, hay chơi bắn bi
Ngày sau khi lớn lên, em sẽ biết rằng con người lầm lạc biết bao…
(Này Em Bé Ơi)

Về phía người nghe, về phía khán giả, thái độ họ ra sao, phản ứng họ thế nào đối với những ca khúc mới, đối với sự chuyển hướng sáng tác của anh? Liệu họ có đáp nhận những thông điệp anh gửi gấm đến cho họ(?). Liệu họ có chia sẻ với anh được chút nào(?). Những ca khúc anh viết sau này có lôi cuốn được họ, có được họ yêu thích như đã từng yêu thích những ca khúc của anh trước đây(?). Kết quả có lẽ không mấy khả quan. Tôi sẽ tỏ dấu ngờ vực nếu có ai đó nói rằng những ca khúc mới của anh được giới thưởng ngoạn đón nhận và tán thưởng nồng nhiệt. Dường như chưa có một tín hiệu rõ rệt nào như vậy. Khán giả như ngỡ ngàng khi đứng trước một LUP có vẻ mới mẻ, lạ lùng. Và LUP, anh cũng nhận biết được điều này, anh cũng tiên liệu được chuyện này. Anh tự hỏi, "Có phải vì thế mà những bài ca của tôi đã trở thành xa lạ với khán giả của mình? (7)" Bằng một giác quan tinh tế, bén nhạy, anh nhận ngay ra là:

"Có một khoảng yên lặng khá lâu giữa nốt cuối cùng của bài hát và tiếng vỗ tay của khán giả. Khoảng yên lặng đó thật là lạ lùng. Khán giả đã không đánh giá được những gì họ nghe thấy. Mọi sự kỳ lạ quá. Đó là những ca khúc sao? Khán giả đã không thấy một điều gì cả, không cảm một điều gì cả. (7)"

Họ có lắng nghe anh nhưng không chắc là đã hiểu được anh. Những tiếng vỗ tay (phát xuất từ lòng yêu mến anh) sau "khoảng yên lặng khá lâu" đó có thể được hiểu như là "chúng tôi không hiểu rõ lắm, nhưng chắc là phải... hay". Khán giả "không cảm một điều gì cả", nhưng LUP thì lại cảm thấy rõ ràng "có một cái gì rất khác lạ đã dội lại chúng tôi từ phía của những người nghe, không phải là một sự phản đối, không phải là một sự hưởng ứng, cũng không phải là một sự thông cảm, hình như đó là một sự ngỡ ngàng, ngỡ ngàng vì những điều đã được trình bày. (7)"

Những ca khúc của LUP sau này ít được phổ biến rộng rãi, ít gặt hái được sự thành công, hiểu theo nghĩa ít được sự tán thưởng về phía người nghe so với những ca khúc thuở trước. Tôi nhớ có lần đọc được một bài báo nào đó tường thuật một buổi trình diễn của LUP, có đông người xem. Lần đó anh có giới thiệu những ca khúc mới của mình. Khán giả có chăm chú nghe nhưng có vẻ không mấy hứng thú, tiếng vỗ tay rời rạc. Họ chờ đợi một điều gì khác hơn. Chỉ đến lúc Lê Uyên và anh trình bày lại những tình khúc quen thuộc ngày trước, những tràng pháo tay mới nổi lên giòn giã... Đó vẫn là những gì họ chờ đợi, vẫn là những gì họ muốn nghe lại, vẫn là "theo em xuống phố trưa mai, đang còn nhức mỏi đôi vai… (9)" Với họ, đó mới là LUP.

Khán giả của LUP ở đâu? Nhạc của anh hầu như có một đối tượng khán giả nhất định, và đối tượng khán giả này hầu như ít muốn có sự thay đổi. Dường như vẫn còn một khoảng cách, một bức màn ngăn cách giữa những ca khúc mới của LUP và những người nghe nhạc anh. Dường như mọi người vẫn chưa thực sự hiểu được anh, hoặc anh vẫn chưa làm cho mọi người hiểu được mình. LUP, anh đã có những lúc thật cô đơn đến tội nghiệp.

“Nhớ chôn tôi với cây đàn guitar”…

Trái tim LUP như những sợi dây đàn, như những phím đàn nhạy cảm, chỉ cần chạm nhẹ đến là đã rung lên những nốt nhạc thảng thốt. Trên những trang sách của anh, rất dễ nhận ra những biểu hiện của một tấm lòng nhân ái, một trái tim nhân hậu. Thử đọc một đoạn anh viết:

"Tôi đã xúc động đến chảy nuớc mắt khi thấy và nghe một cô gái ôm cây đàn guitare đứng hát giữa công viên Central Park của New York, bên cạnh chiếc thùng đàn mở ra, trong đó có những đồng tiền lẻ của những người đứng nghe vây quanh bỏ vào sau mỗi bài hát... Lúc đó tôi đã nghĩ đến tôi qua hình ảnh của người con gái đó. Tôi không biết được đích xác những gì đã đến với tôi lúc bấy giờ, nhưng tôi đã thực sự xúc động. (4)"

Nếu LUP biết được rằng, chỉ ít năm sau khi anh viết những dòng chữ này, những khán giả của anh cũng "đã thực sự xúc động" đến chảy nước mắt khi trông thấy Lê Uyên xuất hiện trên sân khấu với chiếc áo dài mầu đen tuyền, đứng hát một mình với một màn hình lớn ở phía sau chiếu rọi lại hình ảnh Phương ôm đàn cùng hát chung với nàng ở một buổi trình diễn nào đó của hai người vào lúc anh còn sống. Vì anh không còn nữa nên người ta phải tìm cách vá víu, lắp ghép cái màn hình giả tạo đó để làm tái hiện trước mắt khán giả hình ảnh quen thuộc của đôi nghệ sĩ vẫn thường hát chung với nhau những ca khúc từng được mọi người yêu thích. Những ca khúc cần có hai người. Lê Uyên đã phải mượn đến hình ảnh Phương trên màn ảnh video như mượn đến cây gậy để vịn vào đó mà đứng dậy, như mượn một hình nhân giả cho nàng tựa vào đó để có thể đứng vững, để có thể gượng dậy mà đứng hát một mình. Bi thiết đến mức đó sao! Cái hình ảnh người nữ ca sĩ đứng hát một mình đó sao mà tội nghiệp đến vậy! "Sài Gòn bây giờ cúi mặt xa nhau... (10)" Bài hát về Saigon ấy thực ra cũng không có gì đặc biệt lắm trong số nhiều bài hát nói về Saigon (về những nỗi nhớ nhung, tiếc thương, chia lìa...), nhưng tiếng hát của Lê Uyên quả tình đã gây xúc động. Bài hát thực sự có ý nghĩa gì hay chỉ để nhắc nhở những kỷ niệm. Hát khi xa Saigon. Hát khi vĩnh biệt LUP. Tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt của khán giả. Thực tình, khán giả đâu có nghe Lê Uyên hát, người ta chỉ nghe thấy những tiếng nấc, không phải là tiếng hát. Có thể là khán giả cũng "không biết được đích xác những gì đã đến với họ lúc bấy giờ, nhưng họ đã thực sự xúc động".

Và tôi, người khán giả đêm ấy, bên cạnh nỗi xúc động ấy, còn cảm thấy có chút gì bất nhẫn, lẫn chút gì khó chịu. Tại sao người ta lại cố tình dàn dựng như vậy? Tại sao người ta lại muốn nàng phải làm như vậy? Liệu có thực sự cần thiết phải làm như vậy? Để làm gì chứ, để gợi lại nỗi tiếc thương, để cố ý làm mủi lòng người xem chăng(?). Người sống hát chung với người chết. Cái xảo thuật máy móc đó thật kỳ cục, và chỉ là một sự chắp vá khập khiễng, què quặt. Có lẽ không ít người có cùng một cảm giác nặng nề như tôi vào lúc ấy.

Không có Phương, tiếng hát Lê Uyên chỉ còn là tiếng hát một nửa, và chỉ khiến người nghe càng thêm nhớ LUP. Một nửa tiếng hát thì không là gì cả. Không phải là LUP. Nếu không còn những tiếng hát đan quyện vào nhau, quấn quýt với nhau, đeo bám lấy nhau, đâu có còn là tiếng hát LUP.
"Trước và sau, LUP vẫn là người duy nhất không ai thay thế được". Khi nghe những lời bộc bạch của Lê Uyên cùng khán giả sau bài hát đó, tôi không nghĩ rằng đấy là câu nói tự nhiên, bình thường... Tôi có cảm tưởng chị muốn phân giải điều gì đó với mọi người... Tôi cũng tự hỏi không rõ chị có nói cho Phương biết điều này khi anh còn sống(?). Không rõ Phương có nghe được những lời này trước khi anh lìa đời(?). Nếu có, thật may mắn cho anh. Nếu không, quả là điều chua xót. Nghe đâu đời sống tình cảm của anh cũng ít được suông sẻ (dường như anh cũng có thừa nhận đâu đó trong một bài phỏng vấn). Có phải vì vậy mà trong những tình khúc của anh thường chất chứa những nỗi giằng xé, dằn vặt, dày vò... Có phải vì thế mà trong cuốn sách của anh vẫn có những trang viết về bộ mặt khác của tình yêu: sự nhàm chán, sự dối trá, những tham vọng, những lầm lạc...

Hãy đọc thử một vài định nghĩa của LUP về tình yêu, về thiên đường, địa ngục qua một mẩu đối thoại giữa người cha và đứa con:

"Địa ngục? Đó là cái gì vậy?"
"Địa ngục là nơi của sự dối trá, sự đối phó, sự bất an, sự sợ hãi, sự ghen tức, sự đau đớn, sự buộc tội, sự cay nghiệt..., là tất cả mọi điều mà con người muốn thoát khỏi mà không bao giờ thoát được."
"Còn thiên đàng?"
"Hiểu theo một nghĩa rộng rãi, đó chính là tình yêu."
"Tình yêu là một dòng nước trong sau khi đã được gạn lọc mọi rác rến, bùn đất lẫn lộn trong đó. (3)"

Định nghĩa tình yêu theo cách đó, anh vẫn luôn luôn vỗ về, dặn dò với lòng mình hãy yêu thương thật nhiều, hãy cho đi thật nhiều, hãy nâng niu chút hạnh phúc hiếm hoi trong những ngày còn sống trên cõi nhân gian đầy hệ lụy này.

Khóc nhau trong cuộc đời
giấc mơ xưa khăn phủ vành sô
Có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau
chết bên nhau thật là hồn nhiên…

Sống cho nhau mặn nồng
vì ta không còn cho nhau tiếng cười
không còn nhớ bóng dáng người tình ấp ôm
đến khi lìa cõi đời gắt gao...

Sống cho nhau nụ cười
vì biết sẽ có ngày nhìn thấy nhau mắt môi lạnh mất rồi…
(Yêu Nhau Trong Phận Người)

Lời nhạc như những lời trăn trối, dặn dò. Cái chết như đã được chuẩn bị. LUP suy nghĩ về cái chết, về những gì mỗi người sẽ mang theo trong phút giây lìa bỏ cõi đời. Anh đã viết ra những suy nghĩ ấy:

"... Cứ mỗi lần đi dự một đám táng nào, đến lúc người ta bắt đầu ném những viên đất đầu tiên lên nắp quan tài nằm sâu dưới đáy huyệt, bao giờ cũng thế, tôi không thể nào tránh được cái ý nghĩ là ở trong đó, trong chiếc quan tài đó, đang có một cây đàn được chôn theo cùng với người quá cố. (11)"

Tôi tự hỏi là không rõ trong đám táng của LUP, người ta có nhớ chôn theo cùng với anh cây đàn của anh(?). Anh chỉ mong có vậy. Như là câu thơ của Federico García Lorca, “Khi tôi chết, nhớ chôn tôi với cây đàn guitar…” Nếu không có cây đàn ấy, thì thật là điều đáng tiếc. Anh sẽ cô đơn biết chừng nào. Và tôi vẫn nghĩ, cuối cùng có lẽ cũng chẳng có gì gần gũi với anh hơn, thân thiết với anh hơn là cây đàn ấy. Cây đàn đã luôn luôn ở bên cạnh anh, bầu bạn cùng anh trong những tháng năm tươi đẹp, suốt những thời kỳ khốn khó, đã chia sớt cùng anh những niềm vui, nỗi buồn, những hạnh phúc, khổ đau. Chỉ có cây đàn ấy mới thực sự là người bạn đồng hành thân thiết nhất, thủy chung nhất đáng được anh mang theo trong những giây phút cuối của cuộc đời.

Tôi nhớ trước đây có lần một người bạn hỏi tôi nhận xét thế nào về con người LUP, tôi đã trả lời, "Tay này có nội lực." Và đến bây giờ, đọc lại những gì anh viết, tôi càng tin là quả có một nội lực mạnh mẽ tiềm ẩn trong anh, trong cái dáng vẻ khiêm tốn, trong giọng nói nhỏ nhẹ, trong nụ cười hiền lành và trong ánh mắt đăm chiêu chứa đầy những sức sống mơ hồ. Anh mất đi ở cái tuổi vẫn còn gọi là trẻ đối với sức sáng tác của một nghệ sĩ, trong lúc nội lực vẫn còn sung mãn, tiềm tàng... Những ca khúc của anh đã đi vào lòng người, và đã ở lại lâu dài trong lòng người. Người nhạc sĩ nào có lẽ cũng chỉ mong đến được như vậy. Cái mất mát, thiệt thòi lớn nhất là từ nay người ta không còn được nghe anh hát nữa. Không còn tiếng hát LUP nữa. Vì nghe nhạc LUP là phải nghe chính anh, phải nghe bằng giọng hát của chính người nhạc sĩ đã viết nên những ca khúc ấy.

Tôi viết bài này khi cái chết của anh đã tạm lắng xuống. Giờ này, linh hồn anh chắc đã bay về lại quê hương cũ, về lại thành phố "đầy mây trắng và sương mù", thành phố đầy ắp những kỷ niệm mà anh đã luôn ước ao được một lần nhìn ngắm lại bầu trời, nhìn ngắm lại từng cụm mây trắng lững lờ bay. Thành phố suốt đời mây bay đó, chứ không phải là thành phố Los Angeles hay bất cứ thành phố nào khác trên đất nước mà anh đã tạm sống trong những năm rời xa quê hương. Tâm hồn LUP là tâm hồn nặng trĩu những hồi tưởng, nặng trĩu những hoài niệm quá khứ, trái tim LUP là trái tim luôn háo hức tìm về một quê hương xa vời, có con sông xưa, có thành phố cũ.

LUP, chàng nghệ sĩ "ôm đàn tới giữa đời". Anh đã tạt ngang qua cuộc đời này, đã bất ngờ biến mất khỏi cuộc đời này, đã từng tham dự vào những trò chơi tốt xấu, vui buồn lẫn lộn, đã rong chơi đây đó, đã có những năm sống sôi nổi, đã có những hạnh phúc ngắn ngủi, đã luôn luôn chống chọi với những cái xấu, luôn luôn khát khao làm được điều gì có ý nghĩa cho đời sống. Cùng với cây đàn ấy, anh đã góp mặt với cuộc đời, đã cất lên tiếng hát ca ngợi thương yêu. Trong những năm sống đó, dẫu có lúc phải đối đầu với những nghiệt ngã, những chua xót đắng cay, anh vẫn luôn giữ thái độ thản nhiên, vẫn cứ dửng dưng, chấp nhận, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng "trên lưng cuộc đời, thách đố thương đau" (12). Thách đố thương đau, đó là LUP, đó là thái độ nhìn thẳng vào cuộc sống, đương đầu với thử thách, thách thức với số phận. Trên những dòng nhạc của anh, trên những trang viết của anh, chúng ta nghe được những nốt nhạc, đọc được những dòng chữ chứa chan tình yêu, ấm áp tình người, phát xuất từ một trái tim nhân ái, một tấm lòng nhân hậu, khoan dung và độ lượng.

Lê Uyên Phương, anh là một nghệ sĩ đích thực.

lê hữu


(1) Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles, truyện
(2) Âm Nhạc Từ Thiên Đường, truyện
(3) Cha, Con và Biển, truyện
(4) Ở New York, tùy bút
(5) Ca Khúc Của Những Tình Ca, tùy bút
(6) Hát Trong Quán Cà Phê, tùy bút
(7) Trên Những Biên Giới, tùy bút
(8) Ở Tây Bá Linh, tùy bút
(9) Vũng Lầy Của Chúng Ta, nhạc LUP
(10) Khi Xa Saigon, nhạc LUP (thơ Kim Tuấn)
(11) Tuổi Nhỏ, Những Cây Đàn Và Đà Lạt, tùy bút
(12) Hãy Ngồi Xuống Đây, nhạc LUP

--------------------------------------------------------
(Tạp chí Hợp Lưu, Calif., số 55, 10&11/2000)

http://thuvienaudio.net/main/viewtopic.php?f=28&t=4152 

BIẾT THÊM VỀ NHẠC SĨ NGUYỄN VĂN ĐÔNG

Biết thêm về nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông


Image
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể về “Phiên gác Đêm Xuân”:

Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút giao thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia đình. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn bão dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:
“Đón giao thừa một phiên gác đêm
chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
ngở rằng pháo tung bay
ngờ đâu hoa lá rơi…”
Rồi mơ ước rất đời thường:
“Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
mơ rằng đây máinhà tranh
mà ước chiếc bánh ngày xuân
cùng hương khói vương niềm thương…”

Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế, cách đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi.
Còn với hãng dĩa Continental:

Vào năm 1960, tôi và người bạn cao niên tên là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp có tiếng ở Sàigòn, cùng đứng ra sáng lập hãng dĩa Continental và Sơn Ca. Ông Huỳnh Văn Tứ phụ trách Giám Đốc Sản Xuất, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phụ trách Giám Đốc Nghệ Thuật. Chủ trương của chúng tôi là nhắm vào hai bộ môn Tân Nhạc và Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ. Về lãnh vực Tân Nhạc, tôi cho ra đời hàng trăm chương trình mang dấu ấn của hãng Continental, Sơn Ca, Premier. Chính hãng Continental, Sơn Ca đã đi tiên phong trong việc thực hiện Album riêng cho từng cá nhân ca sĩ, như Khánh Ly với Sơn Ca số 7, Lệ Thu với Sơn Ca số 9, Thái Thanh và Ban Hợp Ca Thăng Long với Sơn Ca số 10 và nhiều Album cho Phương Dung, Thanh Tuyền, Giao Linh, làm vinh danh những tài năng này ở thập niên 60 và 70. Riêng về bộ môn Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ , tôi đã thực hiện hàng trăm chương trình Tân Cổ Giao Duyên và trên 50 vở tuồng cải lương kinh điển nổi tiếng như Nửa Đời Hương Phấn, Đoạn Tuyệt, Tiếng Hạc Trong Trăng, Sân Khấu Về Khuya, Mưa Rừng… vân vân. Chính trong thời gian này, tôi tạo thêm hai bút danh nữa là nhạc sĩ Phượng Linh và soạn giả Đông Phương Tử, nhằm phục vụ cho bộ môn Cải Lương Sân Khấu và Tân Cổ Giao Duyên. Bút danh Phượng Linh để sáng tác phần nhạc đệm và bài ca tân nhạc lồng trong các vở tuồng cải lương, phối hợp với giàn cổ nhạc gồm những danh cầm như Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm. Còn bút danh Đông Phương Tử là soạn các bài tân cổ giao duyên và đạo diễn thâu thanh các vở tuồng cải lương. Tiếc thay, những công trình tâm huyết đó đã bị gạt ra bên lề xã hội sau biến cố lịch sử 30 tháng Tư năm 1975.

Nói về những nhạc phẩm sau này, nhạc sĩ NVĐ tâm sự Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập “cải tạo” 10 năm. Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp. Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng như ngoài nước. Vào năm 2003, nhà nước Việt Nam có cho phép lưu hành 18 bài hát của tôi, gồm: Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân, Về Mái Nhà Xưa, Khi Đã Yêu, Đom Đóm, Thầm Kín, Vô Thường, Niềm Đau Dĩ Vãng, Tình Cố Hương, Cay Đắng Tình Đời, Tình Đầu Xót Xa, Khúc Xuân Ca, Kỷ Niệm Vẫn Xanh, Truông Mây, Bài Ca Hạnh Phúc, Bông Hồng Cài Áo, Trái Tim Việt Nam, Núi và Gió.

Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong lãnh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những gì có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi dập vì sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đã phí phạm quãng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!
Kể về hai cô ca sĩ học trò Giao Linh và Thanh Tuyền


Image

Với Giao Linh có nhiều kỷ niệm khó quên. Tôi nhớ lại, vào một sáng Chúa Nhựt năm 1965, nhạc sĩ Thu Hồ đưa đến nhà tôi một cô bé gầy gò ốm yếu. Cô đến bằng chiếc xe máy mini Velo Solex, nhưng không đủ sức đẩy xe qua thềm nhà tôi, phải nhờ nhạc sĩ Thu Hồ giúp đở. Cô bé ngồi im lặng như đóng băng không nói năng chi, trong khi nhạc sĩ Thu Hồ thao thao bất tuyệt về khả năng âm nhạc tiềm ẩn trong người cô. Tôi nhìn cô bé 16 tuổi, vóc dáng nhỏ nhắn, không phát triển như những cô gái cùng trang lứa, nghĩ thầm làm sao cô bé này có đủ hơi sức để hát hò. Tôi gợi chuyện vui để cho cô bắt chuyện, qua đó khám phá cái duyên ngầm sân khấu mà trong nghề nghiệp gọi là tổ đãi cho người nghệ sĩ. Nhưng cô bé vẫn không cười không nói, nên buổi gặp gở đầu tiên đó, tôi không dự cảm được gì về cô. Tuy nhiên, để không phụ lòng nhạc sĩ Thu Hồ, tôi cho một cái hẹn thử giọng cô bé Đỗ Thị Sinh tại phòng thu âm của hãng dĩa Continental. Thật bất ngờ, Giao Linh, cái tên nghệ nhân sau này của cô bé Đỗ Thị Sinh, đã gây sửng sốt bằng chất giọng khỏe khoắn. Cô hát vượt qua tầm cữ quãng tám một cách dễ dàng với làn hơi ngân nga dịu dàng truyền cảm. Hãng dĩa Continental chấp nhận, tôi lên chương trình đào tạo, và chỉ sau một thời gian ngắn, tên tuổi ca sĩ Giao Linh bừng sáng trên vòm trời nghệ thuật, sánh vai cùng đàn anh đàn chị đi trước. Khi ấy Giao Linh vừa tròn 17 tuổi. Riêng cái tên mỹ miều “Nữ Hoàng Sầu Muộn” mà người đời ban tặng cho Giao Linh, chỉ vì cô không mỉm môi cười thì Giao Linh mãi mãi mang theo, dù từ lâu rồi cô đã có một gia đình rất hạnh phúc.

Truờng hợp Thanh Tuyền cũng có nhiều kỷ niệm đặc biệt. Đó là vào năm 1964, tôi đi nghỉ dưởng sức ở Đàlạt. Bạn bè thân hữu ở Đài Phát Thanh đến thăm hỏi, có giới thiệu giọng hát cô bé Như Mai nhiều triển vọng. Cô là nữ sinh Trường Bùi Thị Xuân, hàng tuần có tham gia hát ở Đài Phát Thanh Đàlạt. Rồi nhân dịp nghỉ hè, Trường Bùi Thị Xuân tổ chức phát thưởng bế giảng năm học, mời tôi đến dự lễ. Đến phần văn nghệ, người dẫn chương trình giới thiệu “nữ sinh Như Mai hát tặng cho khách quý đến từ Saigòn”. Giọng cô nữ sinh Bùi Thị Xuân lảnh lót cất lên, khỏe khoắn đầy nội lực thanh xuân, âm vang làm rộn rã cả sân trường. Tôi nghe cháy bỏng một ước mơ, một hy vọng mà cô bé như muốn ngỏ cùng ai. Khi chấm dứt bài hát, Như Mai ngước nhìn tôi. Tôi hiểu ý nên mời cô bé lên gặp tôi trên khán đài và hỏi: “Cháu có muốn trở thành ca sĩ không?”. Như Mai xúc động gật đầu. Sau đó tôi gập thân sinh của Như Mai và bàn chuyện đưa cô bé về Saigòn để đào tạo thành ca sĩ. Khi ấy, tôi còn độc thân, ngày ngày ăn cơm chợ, tối tối ngủ ở đơn vị, thật không tiện chút nào để đở đần một cô gái trẻ xa nhà như vậy.

Thế nên, sau khi bàn bạc với Ban Giám Đốc Hãng Dĩa Continental, tôi nhờ nhạc sĩ Mạnh Phát lên Đàlạt rước Như Mai về Saigòn, tá túc trong gia đình của ông, cũng là gia đình của đôi nghệ sĩ tài danh Minh Diệu-Mạnh Phát thời bấy giờ. Mọi phí tổn ăn ở do Hãng Đĩa Continental đài thọ. Tôi lên chương trình đào tạo và đặt tên mới cho Như Mai là Thanh Tuyền, ý muốn nói là giòng suối xanh của Cao nguyên Đàlạt. Chỉ trong vòng 8 tháng có mặt ở thủ đô Saigòn, Thanh Tuyền đã có đĩa và băng nhạc giới thiệu với người yêu nhạc. Như con chim lạ từ xứ sương mù, một bông hoa rừng còn đẫm ướt hơi sương, Thanh Tuyền nhanh chóng chiếm được sự mến mộ của người yêu nhạc thủ đô, sánh vai cùng đàn anh đàn chị trên Đài Phát Thanh, trên sân khấu Đại Nhạc Hội, phòng trà ca nhạc, được báo giới Sàigòn không tiếc lời ca ngợi. Năm ấy, Thanh Tuyền vừa đúng 17 tuổi.

Riêng đối với tôi vẫn còn xanh mãi một kỷ niệm về ngày khởi đầu đi hát của Thanh Tuyền tại Sài Gòn. Theo chương trình, Thanh Tuyền hát ra mắt lần đầu tiên ở phòng trà Bồng Lai và Vũ trường Quốc Tế đường Lê Lợi Saigon. Tôi đích thân đi mua son phấn để cho Thanh Tuyền trang điểm khi đi hát. Tôi thật bất ngờ khi biết Thanh Tuyền chưa từng sử dụng hộp phấn cây son trước đó. Khi đến giờ trình diễn, tôi đưa Thanh Tuyền đến Viện Thẩm Mỹ, Salon Make Up, nhưng các cửa tiệm đều đóng cửa vì trời đã khuya. Quá lo lắng, tôi kéo Thanh Tuyền chạy men theo đường Lê Lợi mong tìm người quen giúp đở. Nhưng không gập được ai mà thời gian lại gấp rút nên thầy và trò đành ngồi bệt ngay trên vỉa hè Lê Lợi. Nhờ ánh sáng đèn đường, tôi đánh phấn tô son cho Thanh Tuyền mà trước đó, tôi cũng chưa từng biết gì về cây son hộp phấn Chanel. Rồi Thanh Tuyền chạy bay lên lầu phòng trà Bồng Lai để kịp giờ trình diễn, còn tôi nện gót trên lề đường Lê Lợi, lòng ngập tràn cảm xúc khi tiếng hát Thanh Tuyền cất lên, đánh dấu ngày khởi nghiệp của ca sĩ Thanh Tuyền giữa thủ đô Sàigòn hoa lệ. Đến bây giờ, sau 40 năm ngồi nhớ lại, tôi dám đoan chắc rằng, đây là người thiếu nữ duy nhứt trong đời mà tôi đã kẻ lông mày, “tô son trét phấn” rồi tung con chim Sơn Ca vào bầu trời bao la, bởi vì cô là… của muôn người.



Về Hà Thanh, con chim hoạ mi đất thần kinh, người được xem như gắn liền với một số nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông, ông tâm sự

Lần đầu tiên, tôi được gập cô Hà Thanh là vào năm 1963 tại Đài Phát Thanh Sàigòn ở số 3 đường Phan Đình Phùng ngày xưa, bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiễu. Khi ấy, tôi là Trưởng Ban TIẾNG THỜI GIAN của Đài Sàigòn với các ca sĩ như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần văn Trạch, Minh Diệu, Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc v.v. Ngày đó cô Hà Thanh từ Huế vào Sàigòn thăm người chị gái lập gia đình với một vị Đại tá đang làm việc ở Sàigòn. Chính nhạc sĩ Mạnh Phát cho tôi biết về cô Hà Thanh nên tôi nhờ Mạnh Phát liên lạc mời cô Hà Thanh đến hát với Ban Tiếng Thời Gian. Đây là lần đầu tiên tôi được tận tai nghe tiếng hát Hà Thanh, hát nhạc sống và hát thật ngoài đời với ban nhạc của tôi, không nghe qua làn sóng phát thanh hay qua băng đĩa nhạc. Điều này giúp cho tôi có cơ sở nhận định chính xác về giọng hát Hà Thanh. Tôi hiễu ngay đây là giọng ca thiên phú, kỹ thuật tốt, làn hơi diễm cãm tuyệt đẹp, là một vì sao trong những vì sao hiếm hoi ở đĩnh cao nghệ thuật nhưng chưa có cơ hội phát tiết hết hào quang của mình. Ngay sau đó, tôi có mời Hà Thanh thâu thanh cho Hãng đĩa Continental. Nếu tôi nhớ không lầm thì bản nhạc đầu tiên tôi trao cho Hà Thanh là bài VỀ MÁI NHÀ XƯA do tôi sáng tác. Lần đó, cô Hà Thanh hát thật tốt, toàn ban nhạc và Ban Giám Đốc Hãng Continental rất hài lòng, khen ngợi. Sau ngày đó, cô Hà Thanh từ giã trở về lại Huế, trở về lại với Cố đô trầm mặc, tĩnh lặng, không sôi nổi như Thủ Đô Saigòn, là cái nôi của âm nhạc thời bấy giờ.

Sau khi Hà Thanh trở về Huế, tôi có nhiều suy tư về giọng hát đặc biệt này. Tôi ví von, cho đây là vì sao còn bị che khuất, chưa toả hết ánh hào quang, vì chưa có hoàn cảnh thuận lợi để đăng quang, nếu phó mặc cho thời gian, cho định mệnh, có thễ một ngày kia sẽ hối tiếc. Vì vậy tôi đem việc này ra bàn với Ban Giám Đốc Hãng đĩa Continental để mời cô Hà Thanh vào Sàigòn cộng tác. Chính tôi viết thư mời cô Hà Thanh vào Sàigòn với những lý lẽ rất thuyết phục, rất văn nghệ, rất chân tình. Và cô Hà Thanh đã vào Sàigòn sau khi đã tranh đấu gay go với gia đình bố mẹ, vốn giữ nề nếp cỗ xưa của con người xứ Huế. Ngày đó Hà Thanh vào Sàigòn, hoà nhập vào đời sống người Sàigòn, vào nhịp đập âm nhạc Sàigòn, vốn đứng đầu văn nghệ cả nước. Hà Thanh đi thâu thanh cho Đài Sàigòn, Đài Quân Đội và nhận được lời mời tới tấp của các Hãng đĩa băng nhạc như Sóng nhạc, Việt Nam, Tân Thanh, Tứ Hải và hầu hết các Trung Tâm ở Thủ Đô Sàigòn, chứ không phải chỉ riêng cho Hãng dĩa Continental và Sơn Ca của tôi. Ngày đó, tiếng hót của con chim Sơn Ca đất Thần Kinh đã được vang thật xa, đi vào trái tim của hàng triệu người yêu mến tiếng hát Hà Thanh.

Cô Hà Thanh hát hầu hết các tác phẩm của tôi. Bài nào tôi cũng thích, cũng vừa ý, có lẽ vì vậy mà tôi không nghĩ đến chuyện viết bài đặc biệt cho riêng cô. Tôi nhớ lại một chuỗi những sáng tác trong thời binh lửa chiến tranh như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Lá Thư Người Lính Chiến,Phiên Gác Đêm Xuân, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt vân vân, đều rất hợp với tiếng hát Hà Thanh và cô hát rất thành công. Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà còn sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác gỉa khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật.

Tôi cho rằng Hà Thanh có giọng hát thiên phú, cô hát rất thoải mái dễ dàng, không cầu kỳ, không cường điệu, không gò bó nhưng nó cuốn hút ta đi trong cái bềnh bồng không gò ép đó. Tôi cám ơn tiếng hát của Hà Thanh đã mang lại cho các bài hát của tôi thêm màu sắc, thêm thi vị, bay bổng. Trước khi đến với Hà Thanh, tôi cũng rất ngưởng mộ tiếng hát của cô Thái Thanh, Lệ Thanh, Khánh Ngọc và nhiều người khác đã gieo khắp phương trời tiếng lòng của tôi, cũng như về sau này có thêm các cô học trò như Thanh Tuyền, Giao Linh đã giúp cho ông Thầy truyền tải đến trái tim người yêu nhạc. Nhưng đặc biệt, tiếng hát Hà Thanh đã để lại trong tôi nhiều kỹ niệm tốt đẹp, bền bỉ tuy thời gian ngắn ngủi kể từ khi cô bỏ đi lấy chồng để tôi độc hành trên đường nghệ thuật. Sau biến cố 1975, tôi không còn dịp hợp tác với cô Hà Thanh như trước đây. Nhưng thỉnh thoảng tôi được nghe cô hát một sáng tác mới của tôi ở hải ngoại, tôi vẫn cảm thấy tiếng của cô vẫn đậm đà phong cách ngày xưa, vẫn một Hà Thanh diễn cảm, sang trọng, sáng tạo trong khi hát, mặc dù thời gian chia cách đã 40 năm qua.


hieunguyen11