Thứ Năm, 3 tháng 10, 2024

BÌNH QUỚI - KHÚC ĐƯỜNG THIÊN LÝ BỊ BỎ QUÊN

 PHẠM HOÀNG QUÂN


TTCT - Đâu là con đường Thiên lý từ thành Gia Định ra bắc? Các nghiên cứu trước giờ chỉ nói vắn tắt, chung chung và nói sai cũng nhiều.

 
 Đường Bình Qưới ngày nay. Ảnh: Cương Trần

 Đã có nhiều bài viết vắn dài nói về đường Thiên lý hay còn gọi đường quan, đường cái quan, xuyên Việt nói chung và ở thành Gia Định nói riêng. 

Tổng thể và đại khái thì thành Gia Định thời Nguyễn ứng với cả miền Nam, nên ba con đường huyết mạch thuộc khu vực trung tâm đầu não Sài Gòn - Gia Định này tỏa đi gồm: Đường đi theo hướng bắc đến Biên Hòa, Bà Rịa để nối đường trạm ra Huế; đường theo hướng nam đến Định Tường; và đường theo hướng tây đến Quang Hóa sang Cao Miên.

Khi khảo cứu tư liệu lịch sử để vẽ lại con đường Thiên lý từ thành Gia Định ra bắc, các nghiên cứu trước giờ chỉ nói vắn tắt, nói chung chung và nói sai. 

Khởi từ năm 1987 khi xuất bản lần đầu công trình Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, thì 3 con đường Thiên lý đã được nói đến, trong ấy có đoạn viết: “Một đường về phía bắc, qua cầu Sơn, bến đò Bình Đồng, núi Châu Thới, bến Sông Cát, xuống Đồng Môn (Long Thành) đến Hưng Phước (Bà Rịa) rồi ven đường chạy trạm ra bắc”.

Về sau, thêm nhiều bài viết mang tính chuyên khảo, khi mô tả đoạn đường khởi điểm thấy có hai dạng.

Một dạng là nêu ý chung chung, như: “Đường Thiên lý từ Sài Gòn ra Bắc (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Xô Viết Nghệ Tĩnh) khởi đầu từ cầu Thị Nghè, qua cầu Sơn (quận Bình Thạnh), đến núi Châu Thới (Biên Hòa) rồi đổ về Mô Xoài (Bà Rịa)”.

Còn một dạng diễn tả chi tiết, như: “Đường Thiên lý phía bắc, khởi đầu từ cầu Thị Nghè, qua Hàng Xanh, qua cầu Sơn, qua bến đò chỗ cầu Bình Triệu 1 đến ngã tư quốc lộ 13...”.

Những bài viết như trên vốn tóm lược một số sử liệu trong các sách Gia Định thành thông chí (GĐTTC) hay Đại Nam nhứt thống chí, với hai đoạn sử liệu tiêu biểu có thể kể là:

“Đường Thiên lý phía bắc. Hồi mới mở mang, từ phía bắc cầu Sơn đến Bình Giang ruộng ao sình lầy, đường bộ chưa đắp, hành khách muốn qua Biên Hòa hoặc lên Băng Bột [sông Thị Tính] đều phải đi đò dọc. Đến năm Mậu Thìn (1748), nhân có việc Cao Miên cảnh báo, quan Điều khiển Nguyễn Hữu Doãn mới đo đạc giăng dây làm đường thẳng, gặp chỗ có kinh ngòi thì bắc cầu, chỗ bùn lầy thì đắp đất và cây gỗ. Từ cửa Cấn Chỉ trước thành đến bến đò Bình Đồng dài 17 dặm, bờ phía bắc là địa giới Biên Hòa có đặt trạm Bình Đồng, đi về phía bắc qua núi Châu Thới đến bến đò Bình Tiên rồi qua bến Sa Giang [Rạch Cát] do đường sứ Đồng Tràm xuống Đồng Môn, đến Mô Xoài, gọi là đường Thiên lý. Trên đường chỗ nào gặp sông lớn theo lệ đặt đò qua, người chèo đò được miễn sưu dịch”.

Và một đoạn khác: “Bên ngoài thành, đường sá, chợ phố ngang dọc theo hàng lối, đều có thứ tự. Đường quan lộ tuyến bên trái, từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hòa Mỹ đến sông Bình Đồng tới trấn Biên Hòa”. (GĐTTC 1820, Q.6, Thành trì chí).

Hơn ba chục năm qua, những khảo sát, những bài nói về đường cái quan khi mô tả thì hoặc trích dẫn tư tiệu từ mấy bản dịch sách địa chí thời Nguyễn, hoặc dẫn theo đúc kết trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh

Tuy nhiên, điểm then chốt cần tra cứu tính toán kỹ thì lại bị bỏ qua, cho nên khúc đường khởi điểm khi ra khỏi nội thành bị hiểu sai.

 
 Người dân qua phà, vào đường Bình Quới để tới bán đảo Thanh Đa buôn bán. Ảnh: Cương Trần

 Đọc lại 2 đoạn văn trích từ GĐTTC đã dẫn, có thể tóm lại cho gọn là “từ cửa thành (Cấn Chỉ), qua cầu Hòa Mỹ, qua cầu Sơn, đi 17 dặm [~8,5km], gặp bến đò Bình Đồng, bên bờ sông Bình Giang (sông này là ranh giới trấn Phiên An với trấn Biên Hòa), qua sông gặp trạm Bình Đồng, rồi đi tiếp về hướng Biên Hòa”.

Trong đoạn tóm lược này, điều buộc phải biết là: cầu Hòa Mỹ ở đâu, đoạn đường 17 dặm là đường nào, địa danh “Bình Giang” chỉ sông nào, địa điểm “bến đò Bình Đồng” và “trạm Bình Đồng” ứng với chỗ nào hiện nay.

Đã từng có chuyện địa danh Bình Đồng do bản chép/dịch/in sai gì đó mà thành ra Bình Đông, khiến người ta đi đường Thiên lý ra bắc mà phải quay ngược vô miệt Chợ Lớn trước khi ra Biên Hòa.

GĐTTC 1820 trong mục viết về sông Tân Bình (s.Sài Gòn) có nói “Bình Đồng giang (平仝江), tục gọi sông Đồng Cháy (滝仝ई?)”.

Sách Hoàng Việt nhứt thống dư địa chí 1806 (HVNTDĐC 1806) thì chép kỹ hơn, mục đường thủy thì nói “từ vàm rạch Đồng Nhiên (Rạch Chiết) đi 647 tầm [~1,5km] đến bến đò Đồng Cháy” (216 tầm = 1 dặm, ~ 500m), phần về đường bộ cũng chép riêng mục “Từ trạm Mô Xoài [Bà Rịa] đến bến đò Đồng Cháy” và “Từ đầu địa giới bến sông Đồng Cháy theo đường quan đến cửa Cấn Chỉ thành Gia Định”, cũng trong mục đường bộ này, chép “từ bến sông Đồng Cháy đi 2.465 tầm đến cầu Sơn, đi 227 tầm đến cầu Lầu, đi 545 tầm đến cầu Mụ Nghi, đi 40 tầm đến ngã tư, đi 225 tầm đến ngã tư ngoài thành, đi 155 tầm đến cửa Cấn Chỉ, cửa hướng đông bắc”.

HVNTDĐC 1806 kể thêm cầu Lầu cách cầu Sơn hơn 1 dặm (hơn 500m), còn cầu Mụ Nghi tức cầu Thị Nghè ứng với cầu Hòa Mỹ. Đại Nam nhứt thống chí soạn thời Tự Đức, trong phần tỉnh Gia Định, mục Nhà trạm cũng chép lại đoạn viết về đường thiên lý trong GĐTTC 1820, ở mục Cầu và đò thì chép thêm “Bến đò Bình Quới, ở huyện Bình Long, phía bắc giáp bến đò Bình Đồng tỉnh Biên Hòa, rộng 75 trượng”.

Phối hợp ghi chép từ 2 sách, có thể viết lại đoạn văn mô tả khúc đường Thiên lý ra bắc thuộc địa bàn trấn Phiên An như sau: “Từ cửa đông bắc thành cổ đã mất, khoảng khu vực Đài truyền hình, theo đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, đi qua cầu Thị Nghè, qua cầu Sơn, qua cầu Kinh, theo đường Bình Quới, đến cuối đường gặp bờ sông Sài Gòn, qua phà Bình Quới, đi tiếp...”.

Cầu Lầu bắc qua rạch Cầu Lầu thấy trên bản đồ Sài Gòn 1885 nhưng nay rạch đã lấp, cầu đã không còn nên không kể. Thời đắp đường Thiên lý chưa đào kinh Thanh Đa nên chưa có cầu Kinh nhưng phải kể thêm cho hợp hiện trạng ngày nay.

 
Người dân nay vẫn đi phà từ quận 2 qua Bình Qưới mỗi ngày. Ảnh: Cương Trần 

 Khúc đường 17 dặm, HVNTDĐC 1806 chép là 3.702 tầm (~17 dặm lẻ 30 tầm) tức hơn 8 cây số rưỡi, ứng với độ dài đường Bình Quới cộng với đoạn Xô Viết Nghệ Tĩnh gần thành, tức từ bến đò Đồng Cháy đến cầu Thị Nghè. Sông Bình Giang tức gọi tắt tên sông Bình Đồng, được GĐTTC 1820 nói đến gián tiếp trong mục viết về sông Tân Bình (s.Sài Gòn), chỉ khúc sông Sài Gòn đoạn ôm vòng bán đảo Thanh Đa. Bến đò Bình Đồng, còn gọi bến đò Đồng Cháy, bến đò bên bờ tây ở vào khoảng cuối đường Bình Quới, sau dời lên phía bắc một đỗi, tức nơi bến đò Quán hiện nay; bến đò bên bờ đông, HVNTDĐC 1806 chép là “cách vàm rạch Chiết hơn 1,5km” tức ở vào khu vực nhà máy nhiệt điện Thủ Đức, về sau dời lên phía bắc một đỗi, tức chỗ bến phà Bình Quới hiện nay. 

Trạm Bình Đồng ở bên bờ đông, nơi HVNTDĐC 1806 chép là “Ngã ba Quán”, hay “điếm Đồng Cháy”, nơi có bán đồ ăn có chỗ ngủ, cách bến đò chỉ chừng hơn nửa cây số, nhà điếm này, như ngày nay thì gọi là nhà hàng khách sạn Bờ đông sông Bình Đồng, trước 1870 thuộc Biên Hòa, sau thì thuộc Sài Gòn.

Bình Đồng là tên thôn, thay đổi nhiều lần, vài chục năm thì sách chép với tên khác, như Đại Nam nhứt thống chí, tỉnh Biên Hòa, mục Cầu và đò chép: “Bến đò Bình Thọ, ở địa phận huyện Ngãi An, giáp đường quan, thông với tỉnh Gia Định”, mục Chợ quán chép: “Quán Bình Thọ ở thôn Bình Thọ, huyện Ngãi An, tục gọi quán Bình Đồng”, rồi năm 1870 phần đất bên bờ đông sông Sài Gòn nhập vào hạt Thanh tra Sài Gòn, nơi này lại đổi tên là làng Phú Thọ, và ngày nay thì là phường Trường Thọ. Nhưng cái tên nôm Đồng Cháy không đổi, Đại Nam quấc âm tự vị 1895 viết: (mục từ Cháy (ई?): “Đồng Cháy. Tên đồng ở gần Thủ Đức, huyện Ngãi An”).

Bản đồ Sài Gòn 1885 không ghi địa danh Đồng Cháy, khu vực bến đò chỉ ghi tên làng Phú Thọ, chỗ bến đò Đồng Cháy ghi chữ “Bac” (Bắc, nghĩa là bến đò), và một bến gần đó ghi là “Ben Đo Moi” (Bến Đò Mới).

 
 Bản đồ Sài Gòn 1885. Bình Quới Tây, Phú Thọ, R. Đông Nhien dit R. Chiết (Rạch Đồng Nhiên còn gọi Rạch Chiết), Bac (Bắc, tức bến đò Đồng Cháy cũ), Bến Đò Mới.

 Nhiều bản đồ Sài Gòn thời Pháp vẫn ghi tên “Đong Chay” ở khoảng đất bên kia bến đò Bình Quới, như Bản đồ Sài Gòn 1904 đã ghi địa danh “Đồng Cháy” bên bờ đông, còn bên bờ tây dưới đường thiên lý thì ghi: “Guérite da Cabie Télégraphique” (đường trạm quan báo).

 
 Sài Gòn 1904, Đồng Cháy, Bến đò mới, Cầu Bình Lợi (Kinh Thanh Đa đào xong năm 1898, cầu Bình Lợi bắc 1902).

 Và bản đồ Việt Nam Cộng hòa 1964-1974 (loại L701 và L7014, tỉ lệ 1/50.000) đều vẫn còn lưu tên cũ “Xóm Đồng Cháy”.

Bản đồ VNCH 1964, còn lưu tên Xóm Đông Chay [Đồng Cháy], đường lộ và bến đò [ký hiệu: phà]

 Chỉ vẽ con đường Thiên lý từ thành Gia Định vắt qua thôn Bình Quới Tây mà không ghi địa danh bến đò thì thấy trên rất nhiều bản đồ xưa, của Tây của ta có đủ, trong đó có cả bản vẽ “Gia Định tỉnh 1815” của Trần Văn Học.

Điểm đầu đường Thiên lý ở chỗ cầu Sơn, điểm cuối đường xác định được là nơi bến đò Bình Quới, tức đường Bình Quới là đoạn khởi đầu con đường Thiên lý bắc nam thuộc trấn Phiên An. Tính ra thì đường Bình Quới xưa thiệt là xưa, có thể nói nó là di tích giao thông số 1 của Sài Gòn, từ năm 1748 cho đến khi người Pháp bắc cầu Bình Lợi (1902), người ngựa, công văn, hàng hóa qua lại trên đường này biết bao nhiêu mà kể.

 
Ảnh: Cương Trần 

 Phục dựng di sản, giữa chỗ nhộn nhịp chật chội như Sài Gòn, một Lũy Bán Bích, một Giếng An Điềm coi ra rất khó, nhưng con đường Thiên lý lại có vẻ vừa hợp vừa hay, trên đường thì xe cộ vẫn cứ lại qua không phí phạm mắc mớ gì, chỉnh tu chút đỉnh cho ra đường nét cổ, quá dễ, đổi tên đường là đường Thiên lý hoặc đường Cái quan gì đó càng hay.

Nếu không nếu chưa đổi được, thì cũng nên kiếm hai phiến đá xưa xưa, dựng ở đầu đường và ở bến đò, trên thì viết khắc năm ba câu gì đó, kiểu như: “Đường này, sử gọi là Quan lộ, dân gian gọi là Đường cái quan. Hồi năm 1748, quan Điều khiển thành Gia Định Nguyễn Hữu Doãn đốc suất quân dân đào đắp, để việc công nhanh chóng và nhơn dân tiện bề đi lại”, và “Bến đò này, sử gọi bến Bình Đồng, dân gian gọi bến đò Đồng Cháy, mở từ năm 1748, nối đường Thiên lý Bắc Nam”, đại khái vậy đi.


https://cuoituan.tuoitre.vn/binh-quoi-khuc-duong-thien-ly-bi-bo-quen-1617154.htm

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2024

BIỆT THỰ CỔ CỦA ĐỐC PHỦ VÕ HÀ THANH VÀ GIÁ TRỊ CON ĐƯỜNG VEN SÔNG ĐỒNG NAI

 LÊ HOÀNG QUỐC


Chủ trương giữ lại biệt thự cổ trăm tuổi (nhà lầu ông Phủ) để bảo tồn của Đồng Nai hứa hẹn nơi đây trở thành một địa điểm tham quan nổi bật trên tuyến đường du lịch thủy - bộ ven sông Đồng Nai.

Biệt thự cổ trăm năm sẽ tăng giá trị cho đường ven sông Đồng Nai - Ảnh 1.

Bản đồ hệ thống các di tích của làng nghề đá truyền thống Bửu Long - Ảnh: LÊ HOÀNG QUỐC

Tồn tại 100 năm trên mảnh đất xưa kia là làng cổ, biệt thự cổ đẹp nhất Đồng Nai của đốc phủ Võ Hà Thanh không chỉ là di sản của dòng họ. Căn nhà còn có giá trị văn hóa khi nằm trong cụm làng nghề truyền thống có tuổi đời trên 300 năm.

Làng nghề 300 năm

Nhà cổ đốc phủ Võ Hà Thanh nằm trong cụm di tích làng nghề đá Bửu Long với nhiều di tích đã được xếp hạng như chùa Bửu Phong, Tiên Sư Cổ Miếu.

Ngoài ra trong khu vực này còn có các địa điểm khác là khu du lịch Bửu Long (trước đây là hầm khai thác đá cổ), Bửu Long công sở và khu mộ đá cổ dòng họ Võ Hà.

Từ khi các thế hệ lưu dân mở cõi, tướng Trần Thượng Xuyên đã thần phục chúa Nguyễn đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Biên Hòa).

Theo nhà địa phương chí Lương Văn Lựu trong Biên Hòa sử lược (1973), thời gian đầu nhóm binh dân của Trần Thượng Xuyên đến chùa Bửu Phong (khai lập năm 1616) xin tị nạn vào năm 1679, đồng thời xây lại chùa bằng gạch ngói và thỉnh hòa thượng Thành Trí đến trụ trì.

Ngôi cổ tự có niên đại hơn 400 năm này tọa lạc trên núi Bình Điện - ngọn núi ngay phía sau nhà đốc phủ Võ Hà Thanh.

Với vị trí địa lý thuận lợi, có đường xe bò, đường sông, lại sẵn nguồn nguyên liệu đá, nên nhóm lưu dân Trần Thượng Xuyên đã chọn vùng đất dọc sông Đồng Nai làm địa điểm cư trú đầu tiên trước khi xây dựng Cù Lao Phố.

Trong bản đồ Biên Hòa năm 1867 và bản đồ Biên Hòa năm 1881 cũng thể hiện những mái nhà dọc theo sông Đồng Nai mang tính chất là một làng cổ, ở vị trí ngày nay là nhà cổ Võ Hà Thanh kéo dài lên bến đò Trạm.

Những di vật khảo cổ có niên đại từ thế kỷ 17 - 19 phát lộ trong phạm vi dự án làm đường ven sông Đồng Nai cũng cho thấy rõ dấu vết của làng cổ sớm này.

Biệt thự cổ đẹp nhất Đồng Nai và làng nghề hơn 300 năm tuổi - Ảnh 2.

Những hiện vật gốm cổ tìm thấy trong quá trình xây dựng đường ven sông Đồng Nai - Ảnh: LÊ HOÀNG QUỐC

Đa phần nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên thuộc bang Hẹ. Họ lập nghề ở khu vực núi đá Bửu Long (nay thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa). Trước hết là cung cấp đá lát đường cho việc mở thương cảng Nông Nại đại phố (Cù Lao Phố), sau là cung cấp nguồn vật liệu xây dựng cho các công trình của khu vực Nam Bộ.

Khu du lịch Bửu Long trên thực tế đã từng là một mỏ khai thác đá truyền thống của người dân địa phương trong suốt hơn ba thế kỷ.

Di tích Tiên Sư Cổ Miếu cách nhà cổ Võ Hà Thanh khoảng 200m về phía nam, nằm dưới chân núi Long Ẩn và là cơ sở thờ tự của lưu dân người Hoa sớm nhất trên đất Biên Hòa.

Ngôi miếu đặc biệt này (còn gọi là chùa Bà Thiên Hậu Bửu Long) do cộng đồng người Hoa bang Hẹ xây dựng, thờ tam vị tổ nghề: nghề đá, nghề mộc, nghề rèn và phối thờ Thiên Hậu thánh mẫu cùng Quan Thánh đế quân.

Di tích được xây dựng vào năm 1680 trong khi chùa Ông cù lao Phố - Quan Đế miếu xây dựng muộn hơn vào năm 1684.

Căn biệt thự ven sông và khu mộ cổ đá xanh độc đáo

Người Việt Nam đầu tiên chen chân vào lĩnh vực khai thác đá của làng nghề đá truyền thống Bửu Long là ông Võ Hà Thanh. Ông vốn xuất thân gia cảnh nghèo theo cha từ Quảng Ngãi bị đày vào Biên Hòa do tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp.

Ban đầu ông làm thuê, vài năm sau thì sắm được chiếc xe bò chuyển sang kéo đá mướn; sau đó mở hầm khai thác đá và phất lên nhanh chóng.

Năm 1901-1902, ông Võ Hà Thanh trúng thầu xây cầu Hang (cầu đường sắt vượt quốc lộ 1 ở giáp ranh Bửu Hòa - Hóa An). Sau này, ông mở thêm đồn điền, mua ruộng đất, dần tích trữ của cải và trở thành cự phú tiếng tăm ở Biên Hòa.

Nhà cổ Võ Hà Thanh được khởi công vào năm 1922 và hoàn thành năm 1924. Vì khởi nghiệp từ nghề đá, lượng đá xanh Biên Hòa được sử dụng tại ngôi nhà cổ này rất nhiều, bao gồm bó nền nhà, đường dẫn cho xe hơi trước nhà, hệ thống ta luy đá tại bờ sông Đồng Nai và bậc cấp dẫn lên nhà (còn gọi là bến Đá, một số người dân sở tại gọi là bến đò Quan).

Trong sân nhà rải rác những cấu kiện đá xanh được làm tiểu cảnh và ngay cả bàn thiên của căn nhà cũng bằng đá xanh Biên Hòa.

Biệt thự cổ đẹp nhất Đồng Nai và làng nghề hơn 300 năm tuổi - Ảnh 3.

Ram dốc và bó nền bằng đá của nhà cổ Võ Hà Thanh - Ảnh: LÊ HOÀNG QUỐC

Ngoài căn biệt thự ven sông, gia tộc Võ Hà còn có khu mộ cổ bằng đá xanh độc đáo.

Sách Nghề đá Bửu Long cho biết gia tộc Võ Hà Thanh còn có khu mộ gia tộc bằng đá xanh nổi tiếng của làng nghề đá truyền thống Biên Hòa.

Khu mộ cổ Võ Hà (nằm ở phường Bửu Long, sau Văn Miếu Trần Biên) là một quần thể lăng tẩm độc đáo với ngôi mộ cổ nhất được xây dựng vào năm 1829.

Những ngôi mộ ở đây đều được tạo tác bằng đá xanh Bửu Long có quy mô lớn với nhiều hạng mục như trụ biểu, bình phong, liễn ngạch và bình môn, bia văn, bia mộ…

Với những mảng phù điêu trang trí sắc sảo khắc họa hình tượng rồng, lân, linh vật, trái cây, bình bông, dây lá cùng hệ thống di tồn Hán Nôm có giá trị nghệ thuật cao, khu mộ cổ này là một trong những di tích lăng mộ tiêu biểu của khu vực Biên Hòa cũng như Nam Bộ.

Biệt thự cổ đẹp nhất Đồng Nai và làng nghề hơn 300 năm tuổi - Ảnh 4.

Ngôi mộ đá của ông bà Võ Hà Thanh - Ảnh: LÊ HOÀNG QUỐC

Thương hiệu đá Biên Hòa từ lâu đã là một thương hiệu nổi tiếng và là vật liệu quan trọng để xây dựng đình, chùa, miếu, nhà cổ dân dụng, mộ cổ, đô thị không chỉ trong khu vực mà còn cho cả Nam Bộ.

Căn nhà và khu mộ gia tộc của đốc phủ Võ Hà Thanh một mặt mang dấu ấn lịch sử làng nghề đá Bửu Long. Mặt khác, "minh họa" việc sản phẩm đá xanh Biên Hòa được sử dụng trong xây dựng công trình dân dụng tại miền Nam như thế nào.

Đường ven sông Đồng Nai nên là tuyến đường của văn hóa - lịch sử

Ngược dòng lịch sử, có thể thấy vùng đất Đồng Nai đã có những cộng đồng cư dân sớm nhất cách nay 4.000 năm, hình thành nên một nền văn hóa cổ Đồng Nai rất đặc sắc, dày đặc di chỉ, gần nhất là tại Cù Lao Rùa (đối diện bên kia sông của nhà cổ Võ Hà).

Hiếm có một đô thị nào đặc biệt và quan trọng như Biên Hòa khi hình thành bên cạnh con sông lịch sử gắn với một nền văn hóa lớn và tiếp nối liên tục từ xa xưa cho đến nay. Nếu có thể phát huy tối đa các giá trị tiềm năng du lịch, Biên Hòa có thể trở thành một điểm đến thú vị, trong đó có du lịch đường sông.

Một loạt các di tích của Biên Hòa được hình thành ven sông là các di tích ở Cù Lao Phố (Chùa Ông - Thất Phủ Cổ Miếu, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đình Thành Hưng, cầu Rạch Cát), kéo dài lên trung tâm Biên Hòa (nhà Thiếu Nhi - dinh Tham Biện cũ, đình Tân Lân).

Phía Bửu Long có chùa Long Ẩn, nhà cổ Võ Hà Thanh và làng nghề đá truyền thống Bửu Long (cụm làng cổ gồm Tiên Sư Cổ Miếu, chùa Bửu Phong, khu mộ đá Võ Hà, khu du lịch Bửu Long, nhà hội Bửu Long).

Điểm cuối của tuyến có thể là cù lao Tân Triều vốn nổi danh với đặc sản bưởi Biên Hòa.

Căn nhà cổ Võ Hà Thanh không chỉ bó hẹp trong phạm vi di sản nhà cổ của một dòng họ, mà rộng hơn còn là quá trình hình thành và phát triển của một vùng đất có bề dày lịch sử gắn với sự đóng góp của gia tộc Võ Hà.

Được giữ lại và có kế hoạch duy tu bảo tồn hợp lý, căn nhà cổ của đốc phủ Võ Hà Thanh sẽ trở thành một địa điểm tham quan nổi bật, tạo nên một mạng lưới không gian văn hóa của đô thị Biên Hòa có lịch sử lâu đời.

Đồng thời cùng với công trình trọng điểm xây dựng đường ven sông, biệt thự cổ có khả năng góp phần làm tăng thêm giá trị cảnh quan cho tuyến đường du lịch thủy - bộ ven sông Đồng Nai.

Biệt thự cổ trăm năm sẽ tăng giá trị cho đường ven sông Đồng Nai - Ảnh 5.Né biệt thự 100 tuổi: 'phe' chấp nhận đường cong, 'phe' hỏi chẳng lẽ cứ cổ là giữ lại hết?

Nhiều ý kiến của độc giả đồng tình với việc giữ lại biệt thự cổ của Đốc phủ sứ Võ Hà Thanh nằm ven sông Đồng Nai. Nhưng cũng nhiều người nói cái gì cổ cũng giữ lại hết?