Một sáng sớm tháng tư năm 1883, vừa thức giấc, tôi đã
thấy Sherlock Holmes, ăn mặc tề chỉnh đứng bên đầu giường mình. Lệ
thường, anh hay dậy muộn; mà theo đồng hồ lúc này chỉ mới 7 giờ 15. Tôi
ngước nhìn anh, hơi ngạc nhiên. ánh mắt tôi cũng thoáng vẻ bực dọc, vì
chính tôi cũng quen dậy muộn.
- Tôi lấy làm tiếc là đã đánh thức anh dậy. - Holmes nói
- Có chuyện gì thế? Hỏa hoạn à?
- Không, có một thân chủ đang chờ. Một tiểu thư trẻ đang thảng
thốt lo âu và khẩn khoản xin gặp tôi. Cô ấy hiện ngồi đợi dưới phòng
khách. Khi những tiểu thư trẻ dám băng qua thành phố vào lúc mới rạng
sáng như thế này và dám đánh thức những người chưa quen biết dậy, thì
chắc hẳn họ phải gặp chuyện gì đó rất đáng lo. Vụ này có lẽ rất thú vị,
đáng cho anh ghi chép, nên tôi tin chắc, anh sẽ muốn theo dõi ngay từ
đầu. Tôi nghĩ nên đánh thức anh, để anh khỏi bỏ lỡ một dịp may.
- Ồ, anh bạn vàng, tôi không đời nào chịu để lỡ một dịp may, vì bất cứ lý do gì.
Tôi hối hả mặc quần áo, và chỉ vài phút sau đã theo chân bạn tôi
xuống phòng khách. Cô tiểu thư mặc bộ quần áo đen, gương mặt khuất sau
một tấm mạng nhỏ thó, đang ngồi bên cửa sổ, cô vội đứng ngay dậy khi
chúng tôi bước vào.
- Chào tiểu thư, - Holmes niềm nở - tôi là Sherlock Holmes. Còn
đây là bạn tôi, bác sỹ Watson. Tiểu thư có thể trò chuyện với anh ấy cởi
mở, như với chính tôi. À, rất mừng là bà Hudson đã tinh ý nhóm giúp lò
sưởi. Tiểu thư nên ngồi gần thêm chút nữa cạnh lò sưởi và tôi xin phép
được mời tiểu thư một tách cà phê nóng, vì tôi thấy tiểu thư đang rét
run lên.
-Tôi run không phải vì trời lạnh, cô gái khẽ đáp.
- Vậy thì vì lý do gì?
- Vì sợ, thưa ông. Vì kinh hoàng. - Vừa nói, cô gái vừa nâng tấm
mạng che mặt lên, và chúng tôi thấy cô đang thật sự thảng thốt trong
nỗi kinh hoàng. Sắc mặt tái mét ánh mắt lộ rõ vẻ khiếp sợ, như ánh mắt
con thú săn đang bị bủa vây. Trông bề ngoài, cô chỉ trạc ba mươi, nhưng
mái tóc đã điểm bạc đôi chỗ, còn cử chỉ thì lộ rõ vẻ uể oải mỏi mệt. Chỉ
bằng khoé mắt từng trải của anh, Sherlock Holmes đã biết về cô đủ mọi
điều.
- Cô đừng sợ - anh nói, - chúng tôi sẽ giúp cô sớm giải thoát
được mọi ưu phiền. Tôi chẳng chút hồ nghi. Tôi biết rõ cô vừa tới đây
bằng chuyến tàu sớm nay.
- Thế ra ông đã biết tôi trước lúc tôi đến đây hay sao?
- Không, nhưng tôi nhìn thấy trên chiếc găng tay bên trái của cô
phần còn lại của tấm vé khứ hồi. Cô đã phải dậy rất sớm, rồi còn phải
ngồi co ro rất lâu trên một chiếc xe độc mã suốt cả một chặng đường dài
lầy lội trước lúc ra tới ga.
Cô gái bối rối, nhìn anh bạn tôi chằm chằm.
- Chẳng có gì huyền bí đâu, thưa tiểu thư, anh mỉm cười nói -
trên ống tay áo vét cô đang mặc lấm tấm bùn, ít nhất là ba chỗ. Những
vết bẩn ấy còn mới. Không một loại phương tiện giao thông nào, ngoại trừ
xe độc mã, lại có thể làm bắn nhiều bùn đất đến thế lên người hành
khách; nhất là khi họ ngồi bên trái xà ích.
- Ông hoàn toàn đúng, dù ông dùng cách nào để phán đoán như vậy,
cô gái nói. Tôi rời khỏi nhà lúc gần 6 giờ, đến Leatherhead lúc 6 giờ
20 và đáp ngay chuyến tàu đầu tiên đến ga Waterloo... Thưa ông, tôi
không còn chịu đựng được nữa. Tôi sẽ hóa điên mất nếu tình cảnh này cứ
kéo dài. Tôi chỉ có một người để nhờ vả, nhưng con người khốn khổ đó e
chẳng gíup ích được bao nhiêu. Vì vậy, tôi đành tới cầu cứu ông, thưa
ông Sherlock Holmes. Ông có đủ sức giúp không, ít ra là cũng làm sáng tỏ
ít nhiều những bí ẩn đáng sợ đang bủa vây tôi bốn bề?
- Xin cô cứ kể hết với chúng tôi tất cả những gì có thể giúp chúng tôi hình dung được tình cảnh đang khiến cô sợ hãi.
- Điều khủng khiếp nhất trong tình cảnh của tôi hiện nay là
những lo sợ của tôi, những lo sợ đều hết sức mơ hồ, - cô thân chủ đáp. -
Những ngờ vực của tôi đều bắt nguồn từ những chuyện rất nhỏ nhặt, đến
nỗi người khác có thể cho là vớ vẩn. Nhưng tôi nghe đồn chỉ có ông, thưa
ông Sherlock Holmes, mới thấu hiểu hết tâm địa hiểm ác của người đời;
ông mới có thể khuyên tôi nên xoay xở thế nào trong những hiểm họa đang
bủa vây quanh tôi.
- Tôi đang lắng nghe cô đây, thưa cô.
- Tôi tên là Helen Stoner. Tôi đang ở với ông bố dượng. Ông ấy
là người cuối cùng còn sống của một dòng họ Saxon lâu đời nhất Anh quốc,
dòng họ Roylotts xứ Stoke Moran, tại cực tây này, giáp ranh với Surrey.
Sherlock Holmes gật đầu.
- Tôi đã được nghe nói khá nhiều đến cái tên đó - anh nói.
- Có một thời, họ từng là dòng họ giàu có nhất Anh quốc. Lãnh
địa họ, ở mạn bắc, vắt qua cả biên giới, ăn sâu vào tận Berkshire, và ở
mạn tây, tận Hampshire. Nhưng vào cuối thế kỷ trước, cả bốn thế hệ liền
đã mặc sức phung phí và chẳng buồn làm gì. Trong thập niên 1820, những
gì còn sót lại đã bị một gã máu mê cờ bạc nướng hết vào các trò đen đỏ,
ngoài trừ một vài mẫu đất và một tòa nhà cũ, xây từ hai trăm năm trước.
Viên điền chủ cuối cùng của dòng họ đành phải lui về cư ngụ tại ngôi nhà
nọ, sống cuộc đời thảm hại của một người quý tộc nghèo. Nhưng cậu con
trai độc nhất của ông ta, người hiện là bố dượng tôi, hiểu rằng phải tìm
cách thích nghi với tình cảnh mới. Ông ấy cố kiếm được một mảnh bằng
bác sỹ, rồi lên đường sang Calcutta. Tại đây, ông ta nhờ có tay nghề và
đức kiên nhẫn, nên chẳng bao lâu sau đã được đông đảo khách hàng tín
nhiệm. Nhưng rồi nhà ông ta bị mất cắp, khiến ông ta tức điên người,
đánh một gia nhân người bản xứ đến chết, và chật vật lắm ông ta mới
thoát khỏi bản án xử giảo. Sau vụ đó, ông ta đã phải chịu cảnh tù tội
rất lâu, nên khi được thả ông trở về Anh quốc trong tâm trạng thất vọng
và bi quan.
Hồi còn làm bác sỹ ở Ấn Độ, bác sỹ Roylott đã kết hôn với mẹ
tôi, bà Stoner, một quả phụ trẻ, vốn là vợ của Thiếu tướng Stoner, chỉ
huy pháp binh tại Bengal. Tôi và Jlia, chị tôi, là hai chị em sinh đôi.
Hồi mẹ tôi đi bước nữa, hai chúng tôi mới 20 tuổi. Mẹ tôi có một khoản
tiền khá lớn, mỗi năm được hưởng không dưới một ngàn bảng lợi tức. Bà
giao hết khoản tiền đó cho bác sỹ Roylott cai quản, vì hai chị em tôi
còn phải sống cùng ông bố dượng, và dặn ông ta phải chia đôi cho hai
chúng tôi khi nào chúng tôi đi lấy chồng. Mẹ tôi qua đời chỉ ít lâu sau
ngày chúng tôi trở về Anh: bà chết cách đây 8 năm trong một vụ tai nạn
hỏa xa gần Crewe.
Ngay sau ngày đó, bác sỹ Roylott lập tức bỏ ý định ở lại London
hành nghề, và đưa hai chị em tôi về Stoke Moran, sống tại ngôi nhà được
thừa kế. Khoản tiền mẹ tôi để lại thừa đủ chu cấp cho mọi sở thích của
chúng tôi, và tưởng chừng chẳng có gì ngăn trở chúng tôi sống hạnh phúc.
Nhưng đúng vào thời kỳ đó, tính khí bố dượng tôi bỗng thay đổi
hẳn. Thay vì kết thân và tới viếng thăm những người hàng xóm, mới đầu
rất hồ hởi khi được gặp lại một người thuộc dòng dõi Roylott trở về sống
tại quê cũ, ông ta cứ ru rú suốt ngày ở nhà. Ông ta chẳng mấy khi bước
ra ngoài, và hễ đi ra đến ngoài thì lần nào cũng gây gổ dữ dội với bất
cứ ai chạm trán với ông trên đường đi. Cái tính hay có những cơn giận
hung hãn đã thành một tật cố hữu của cánh đàn ông dòng họ Roylotts. Và
đến đời bố dượng tôi, các tật đó lại càng tăng thêm, có lẽ vì ông ta
sống quá lâu ở miền nhiệt đới. Một loạt những vụ ẩu đả tồi tệ đã xảy ra,
trong đó có hai vụ đã phải kết thúc ở đồn cảnh sát. Rốt cục, ông ta trở
thành nỗi kinh hoàng của cả làng, và dân ở đấy ai cũng vội vã tránh mặt
ông ta, vì ông ta có một thể lực phi thường và hoàn toàn không thể tự
kiềm chế, khi đã nổi cơn thịnh nộ.
Bạn bè độc nhất của ông ta là những người Digan
1 sống lang thang nay đây mai đó; ông cho họ dựng lều trại trên mảnh đất nhỏ, diện tích chỉ vài acre
2
của dòng họ để lại. Ông ấy thích lang thang đây đó cùng họ; có lần
vắng nhà hàng tuần. Ông ta cũng thích những giống vật Ấn Độ, được người
quen gửi tận bên đó về. Hiện ông đang nuôi một con báo đốm
3 và một con khỉ đầu chó
4 , suốt ngày đêm thả rông, mặc cho chúng muốn đi đâu thì đi. Dân làng hầu như ai cũng sợ chúng chẳng kém gì chủ chúng.
Qua lời tôi kể, chắc ông dễ dàng hình dung được là cảnh sống của
chị Julia đáng thương và tôi chẳng lấy gì làm sung sưóng cho lắm. Không
một người giúp việc nào chịu nổi cảnh sống ở nhà chúng tôi, nên từ lâu
lắm rồi, hai chị em tôi đã phải tự tay làm lấy mọi việc trong nhà. Chị
tôi đã chết hồi chỉ mới ba mươi tuổi, và tóc chị ấy cũng đã điểm bạc như
tóc tôi.
- Thế chị ấy đã mất rồi sao?
- Chị ấy qua đời cách nay vừa tròn hai năm. Chính tôi cũng đang
định kể với ông về cái chết của chị ấy. Các ông thấy đấy, cảnh sống mà
tôi vừa kể khiến chúng tôi không còn thích giao du với bất cứ ai cùng
trang lứa và địa vị. Chị em tôi có một bà dì ruột, sống độc thân, tên là
Honoria Westphail, bà ở mạn Harrow, nhưng họa hoằn lắm chúng tôi mới
được phép đến thăm bà vài ngày. Cách đây hai năm, chị Julia có đến đó
đón lễ Noel và đã gặp một Thiếu tá Hải quân, rồi đính hôn cùng anh ta.
Dượng tôi được biết chuyện đó sau ngày chị Julia trở về và không tỏ ý
phản đối cuộc hôn nhân ấy nhưng rồi hai tuần trước ngày họ định tổ chức
hôn lễ, chị Julia đã gặp một việc khủng khiép đã cướp mất của tôi người
bạn tâm tình độc nhất trên đời.
Sherlock Holmes nãy giờ ngả người vào lưng ghế, mắt lim dim, đầu
tựa trên chiếc gối đặt trên tay vịn của chiếc đi văng. Nghe đến đó, anh
bỗng hé mắt nhìn thẳng vào mắt cô gái.
- Xin cô kể lại chuyện ấy thật cặn kẽ - anh nói.
- Việc này đối với tôi rất dễ, vì mọi điều xảy ra vào khoảng
thời gian kinh hoàng đó đều đã khắc sâu vào ký ức của tôi. Tòa nhà chính
mà dượng tôi được thừa kế, như tôi vừa kể, rất cũ kỹ, chỉ còn một dãy
bên là còn ở được. Sàn của mấy phòng ngủ ở đây toàn là sàn đất nện; mấy
phòng khách thì chiếm phần trung tâm tòa nhà. Trong ba phòng ngủ kia,
thì phòng đầu là bác sỹ Roylott, phòng thứ hai là của chị tôi, còn phòng
cuối thì dành cho tôi. Chẳng phòng nào ăn thông với phòng nào; nhưng cả
ba đều có cửa mở ra dãy hành lang chung. Tôi kể như vậy, có được rõ
không ạ?
- Rất rõ.
"Cửa sổ ba phòng đều hướng ra phía bãi cỏ. Vào cái đêm kinh
hoàng đó, bác sỹ Roylott về phòng rất sớm, nhưng chúng tôi biết ông ấy
chưa ngủ, vì chị tôi phải khó chịu vì cái mùi xì gà Ấn Độ rất nặng mà
ông ta quen dùng. Vì vậy, chị ấy rời phòng sang bên tôi, ngồi một lúc,
nói chuyện gẫu về cái đám cưới sắp tới. Mười một giờ thì chị ấy đứng
dậy, rời phòng tôi, nhưng ra đến cửa bỗng dừng lại, ngoái nhìn sau lưng,
rồi lên tiếng hỏi tôi:
- Helen,khuya khuya, em có bao giờ nghe tiếng ai đó huýt sáo không?
- Chưa bao giờ - tôi đáp.
- Biết đâu em có thể huýt sáo lúc mơ ngủ?
- Không thể có chuyện đó được. Nhưng tại sao chị hỏi thế?
- Vì mấy đêm gần đây, vào khoảng ba giờ sáng, đêm nào chị cũng
nghe có tiếng huýt sáo rất khẽ và rõ. Chị vốn tỉnh ngủ, nên tiếng động
đó khiến chị thức giấc. Chị không thể nói rõ nó từ phía nào đưa lại. Có
thể là từ phòng bên, mà cũng có thể từ ngoài bãi cỏ vọng vào. Hôm qua,
chị đã định hỏi em có nghe thấy không.
- Không, em không nghe. Chắc là đám Digan đấy.
- Có lẽ đúng vậy thật. Nhưng nếu quả là từ ngoài bãi cỏ vọng vào thì sao em không nghe thấy? Lạ thật!
- Ồ, em ngủ say hơn chị nhiều.
- Thôi, toàn chuyện vớ vẩn không đâu - chị ấy mỉm cười, khép cửa
phòng tôi, và lát sau tôi nghe thấy tiếng chìa lách cách trong ổ khóa
phòng chị."
- Thì ra là vậy, Sherlock Holmes nói. Chị cô và cô bao giờ cũng khóa cửa trước lúc đi ngủ?
- Vâng.
- Sao vậy?
- Hình như tôi đã kể với ông là dượng tôi có nuôi thả rông một
con báo đốm và một con khỉ đầu chó. Hai chị em tôi chỉ cảm thấy an toàn
khi đã khóa trái cửa sau lưng.
- Tôi hiểu. Xin cô kể tiếp.
"Đêm đó, tôi không thể nào chợp mắt được. Tôi linh cảm mơ hồ một
điều bất hạnh sắp xuống giáng xuống đầu mình. Hai chúng tôi, hẳn ông
còn nhớ, là hai chị em sinh đôi, và chắc ông cũng biết, anh em hay chị
em song sinh vốn gắn bó với nhau mật thiết như thế nào. Đêm đó quả là
một đêm ghê rợ. Gió rít từng hồi, còn mưa thì xối xả trút nước vào cửa
sổ. Bất thình lình, trong tiếng gió gào thét bỗng dậy lên một tiếng rú
man dại của một người phụ nữ đang hốt hoảng. Tôi nhận ra ngay: đó là
tiếng chị tôi. Tôi nhảy vội xuống đất, lao ra hành lang. Lúc đang mở
cửa, tôi chợt nghe một tiếng huýt sáo kẽ, đúng như chị tôi kể, rồi chỉ
một lát sau, tiếng rơi đánh sầm của một vật nặng bằng kim loại. Khi tôi
chạy sang, tôi thấy cửa phòng chị tôi không khóa, cánh cửa đang từ từ
xoay trên bản lề. Tôi kinh hãi, trố mắt nhìn, không biết cái gì sắp xảy
ra đây. Dưới ánh đèn treo ngoài hành lang, tôi thấy chị Julia hiện ra
sau cánh cửa, mặt trắng bệch vì khiếp sợ. Chị chới với vươn hai tay ra
phía trước, cầu cứu tôi, toàn thân lảo đảo như thể đang say. Tôi chạy
vội tới, ôm choàng lấy chị, nhưng đúng vào lúc đó, chân chị bỗng bủn rủn
và chị ngã khuỵu xuống đất. Chị quằn quại vì một nỗi đau đớn không thể
chịu đựng nổi. Mới đầu, tôi tưởng chị không nhận ra mình; nhưng lúc tôi
cúi xuống, chị bỗng hét lên bằng một giọng mà tôi nhớ suốt đời:"Trời ơi,
Helen! Cái dải băng ấy! Dải băng lốm đốm!". Chị ấy còn cố nói một điều
gì đó nữa, tay chỉ chỉ về phía phòng ông bố dượng, nhưng một cơn co giật
nữa lại ập tới, không cho chị thốt nên lời. Tôi vừa đứng bật dậy, vừa
lớn tiếng gọi ông bố dượng, và thấy ông ta chạy vội ra khỏi phòng. Trên
người còn mặc chiếc áo ngủ lụng thụng. Khi ông ta chạy tới thì chị tôi
đã bất tỉnh. Ông ta đổ rượu brandy vào miệng chị tôi, cho người đi gọi
ông thầy thuốc trong làng nhưng mọi cố gắng cứu chữa chị tôi đều vô
hiệu. Chị lả dần, rồi tắt thở, không còn tỉnh lại được nữa. Người chị
yêu quý của tôi đã chết một cách khủng khiếp như vậy đó."
- Xin hỏi cô một câu, Sherlock Holmes nói - Cô có tin chắc là đã
nghe tiếng huýt sáo và tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại? Cô có
dám thề là mình đã không nghe lầm không?
- Tôi cảm thấy mình không lầm chút nào. Nhưng dẫu sao tôi cũng
không dám đoán chắc lắm, vì lúc đó gió đang gào thét bên ngoài và căn
nhà cũ cũng phát ra đủ mọi thứ âm thânh giữa lúc mưa to gió lớn.
- Chị cô lúc đó đã ăn mặc tề chỉnh?
- Không! Chỉ mỗi chiếc áo ngủ trên người. Bên tay phải đang cầm một que diêm đã đánh lửa, còn bên tay trái - một bao diêm.
- Điều đó chứng tỏ cô ấy đã quẹt diêm lên để xem thử có chuyện
gì khiến cô ấy sợ hãi. Chi tiết đó rất quan trọng. Vậy ông dự thẩm kết
luận thế nào khi đến điều tra?
- Ông ấy xem xét hết sức cẩn thận nội vụ, vì bác sỹ Roylott từ
lâu đã là đối tượng khả nghi. Nhưng ông ấy không tài nào tìm thấy một
chứng cứ gì xác đáng về nguyên nhân cái chết. Cửa phòng được khóa chặt
từ bên trong. Bên ngoài cửa sổ còn có thêm một lần cửa gỗ được gá trên
những thanh sắt to bản để phòng ngừa kẻ gian. Hơn nữa, đêm nào cũng cài
then cẩn thận. Tôi cũng đưa ông ấy đi xem tường vách: tất cả đều vẫn còn
vững chãi lắm. Sàn nhà cũng được khám xét kỹ, nhưng vẫn chẳng có dấu
hiệu khả nghi nào. ống khói lò sưởi tuy rộng, nhưng không thể chui qua.
Như vậy, chắc chắn là khi xảy ra cái tai họa bi kịch ấy, chị tôi chỉ có
một mình trong phòng.
- Thế khả năng bị đầu độc?
- Các bác sỹ cũng đã khám nghiệm tử thi, nhưng chẳng thu được một kết quả nào.
- Vậy, theo cô, lý do gì đã khiến người chị bất hạnh của cô chết thảm khốc như thế?
- Tôi tin rằng chị ấy chỉ vì quá kinh hoàng và chấn động thần
kinh, tuy không thể hình dung nổi điều gì đã khiến chị ấy sợ hãi đến mức
đó.
- Hôm đó, đám Digan có mặt trong địa phận trang trại không?
- Có, họ hầu như lúc nào cũng ở gần trang trại.
- Này, vậy cô nghĩ gì về dải băng, dải băng lốm đốm, mà chị cô có nhắc tới?
- Có lúc tôi nghĩ đó chỉ là những lời vô nghĩa trong cơn mê sảng
của chị tôi; nhưng có lúc tôi cho rằng có lẽ chị tôi muốn nói tới một
loại băng đảng
5
gì đấy, chắc là tới đám người Digan, cũng có thể là thứ khăn trùm sặc
sỡ mà dân Digan hay dùng đã khiến chị ấy thốt ra hai chữ "lốm đốm"
6 kỳ dị đó.
Holmes lắc đầu như có ý không chút nào thấy thỏa mãn.
- Còn có một cái gì khác nữa kia! - anh nói - Xin cô kể tiếp đi.
"Hai năm trôi qua kể từ ngày đó, và cuộc sống của tôi càng trở
nên lẻ loi, cô độc hơn bao giờ hết. Nhưng tháng trước, một anh bạn thân
mà tôi quen biết từ nhiều năm, đã ngỏ lời cầu hôn tôi. Anh ấy tên là
Armitage, Percy Armitage, thứ nam của ông Armitage ở vùng Crame Water,
gần Reading. Bố dượng tôi không phản đối, và chúng tôi định sang xuân
thì tổ chức hôn lễ. Cách đây hai ngày, bác sỹ Roylott gọi thợ tới, cho
sửa chữa phần trái nhà ở mạn tây. Họ đập phá vách tường căn phòng ngủ
của tôi, nên tôi phải dời sang ở tạm tại căn phòng nơi chị tôi đã qua
đời, ngủ trên chính chiếc giường chị ấy từng ngủ. Đêm qua, tôi nằm mà
chẳng tài nào chợp mắt được, vì nghĩ tới cái chết bi thảm của chị mình.
Thế rồi, các ông có hình dung được không nỗi kinh hoàng của tôi. Tôi
bỗng nghe thấy trongcảnh vắng lặng của đêm khuya cái tiếng huýt sáo khẽ
mà chính chị tôi từng nghe thấy trước lúc chết. Tôi choàng ngay dậy,
châm đèn lên, nhưng chẳng thấy gì trong phòng cả. Tôi quá hoảng sợ, nên
không thể lên giường ngủ tiếp, đành mặc sẵn quần áo, ngồi chờ. Thấy trời
vừa sáng, tôi vội lên đường đến gặp ông ngay, để cầu cứu ông."
- Cô đã xử sự rất khôn ngoan. - bạn tôi nói - Nhưng cô đã kể hết chưa?
- Thưa ông, hết rồi.
- Chưa đâu, cô Roylott ạ. Cô đang bao che cho ông bố dượng của cô đấy.
- Sao kia? Ông muốn ám chỉ điều gì?
Thay vì câu trả lời, Holmes kéo cao ống tay áo của cô thân chủ
lên. Năm vết đỏ bầm, dấu của năm ngón tay, nổi rõ trên cổ tay trắng muốt
của cô gái.
- Cô bị ông ta đối xử tàn tệ quá! Holmes nói.
Cô gái đỏ bừng mặt, kéo vội ống tay áo xuống để che cái cổ tay bị bầm.
- Ông ấy là hạng người cục súc, cô nói, sức lực như hộ pháp, và chắc không lường hết được sức mạnh của mình.
Cả ba chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu. Holmes tì cằm lên hai tay, nhìn chằm chằm ngọn lửa cháy trong lò.
Mãi sau, anh mới lên tiếng:
- Vụ này thật bí ẩn. Có tới hàng trăm tình tiết tôi đang muốn
biết rõ trước lúc quyết định phương hướng hành động. Chúng ta đừng để
mất thời giờ. Cô có thể giúp chúng tôi về Stoke Moran ngay hôm nay, để
chúng tôi xem kỹ lại mấy căn phòng đó, mà dượng cô không hề hay biết,
được không?
- Được ạ. Vì ông ấy có nói là hôm nay phải lên London thu xếp
một số công việc gì đó hết sức hệ trọng. Chắc ông ta sẽ vắng nhà suốt
ngày, nên không ai cản trở các ông đâu.
- Tuyệt! Thế thì cả hai chúng tôi sẽ cùng đến. Còn cô, cô có phải thu xếp việc riêng gì nữa không?
- Tôi có vài việc đang định làm gấp nhân lên đây, nhưng tôi sẽ
quay về ngay bằng chuyến tàu 12 giờ, nên tôi vẫn có mặt ở nhà để tiếp
đón hai ông.
- Vậy cô nên đợi sẵn chúng tôi sau mười hai giờ trưa. Tôi cũng
có vài việc vặt cần thu xếp.Cô có vui lòng ở lại dùng điểm tâm với chúng
tôi không?
- Ồ không, tôi phải đi gấp. Hy vọng sẽ gặp lai các ông vào chiều nay -cô gái buông chiếc mạng đen xuống, rồi rời căn phòng.
- Anh nghĩ sao về vụ này, Watson? - Sherlock Holmes vừa hỏi vừa ngã người vào lưng ghế.
- Tôi cảm thấy đây là một vụ án đầy bí hiểm, có thể chứa đựng một tội ác thâm độc.
- Bí hiểm thật, mà cũng thâm độc thật.
- Cô gái cho biết sàn nhà, tường, vách còn rất chắc; không một
ai có thể đột nhập qua cửa ra vào, cửa sổ, và ống khói, thì rõ ràng là
người chị chỉ có một mình trong phòng, lúc cái chết bí hiểm kia ập đến.
- Vậy thì tiếng huýt sáo lúc nửa đêm, và những lời kỳ lạ cô ấy thốt ra trước lúc chết phải lý giải thế nào?
- Tôi chưa thể nghĩ ra.
- Anh nên ngẫm nghĩ kỹ về tiếng huýt sáo giữa đêm khuya và dải
băng của đám Digan mà lão bác sỹ chứa chấp trong địa phận của lão. Ta
cũng có lý do để tin rằng lão ta rất quan tâm tới việc ngăn cản cô con
gái của người vợ cũ đi lấy chồng. Hơn nữa, ở đây còn có lời cô chị nhắc
tới dải băng và sau cùng, là tình tiết cô Helen Stoner nghe thấy tiếng
rơi của một vật nặng bằng kim loại. Âm thanh đó rất có thể là do một
thanh sắt gá vào cánh cửa chắn bên ngoài cửa sổ phát ra, khi nó bật mạnh
vào vị trí cũ.Tất cả những tình tiết đó, theo tôi, có thể giúp ta lý
giải vụ án.
- Nhưng nếu vậy thì đám Digan có liên quan gì?
- Tôi chưa thể hình dung.
- Tôi thấy có quá nhiều điều chống lại cái giả thuyết anh vừa đưa ra.
- Tôi cũng nghĩ vậy. Chính vì lý do đó nên hôm nay chúng ta phải
tới tận nơi, tới Stoke Moran. Tôi muốn biết những bằng chứng phản bác
có vững hay không, hay ít ra cũng hiểu rõ được sự thể hơn. Ồ, lại sắp có
chuyện quỉ quái gì nữa đây?
Cửa phòng bật mở, và một người đàn ông cao lớn vạm vỡ xuất hiện.
Ông ta cao đến nỗi mũ gần chạm vào thanh ngang trên cùng của khung cửa,
và to ngang tới mức choán gần hết cả bề rộng cửa ra vào. Mặt ông ta to
bè, nhăn nheo, sạm nắng và hằn sâu những dấu tích của đủ mọi thứ dục
vọng quỉ quái. Ông ta đảo mắt lia lịa nhìn hai chúng tôi, và cặp mắt
trũng sâu cùng cái mũi khoằm của ông ta khiến ông ta trông như một con
ác điểu già hung dữ.
- Trong hai anh, ai là Holmes, hả? - lão hỏi
- Tôi đây, thưa ngài - bạn tôi bình thản đáp.
- Ta là bác sỹ Grimesby Roylott ở Stoke Moran.
- Rất hân hạnh - Holmes nói - Mời bác sỹ ngồi.
- Ta chẳng thèm ngồi với anh làm gì. Con gái vợ ta vừa ở đây ra. Ta đã lần được dấu vết nó. Nó đã hót gì với các anh, hả?
- Trời lạnh thế này quả là trái mùa - Holmes nói.
- Nó đã hót với anh những gì?- lão rít lên, giọng tức giận.
- Nhưng tôi nghe nói hoa vẫn sẽ được mùa - bạn tôi nói tiếp.
- À, anh định đánh trống lảng chứ gì? - ông khách vừa nói vừa
bước lên trước một bước. - Anh thì ta chẳng lạ. Ta nghe danh anh lâu
rồi. Anh là Holmes, một gã rất hay can thiệp vào công việc người khác.
Holmes tủm tỉm cười đắc ý.
- Trò chuyện với ông thật thú vị. - anh nói. - Bao giờ ra khỏi đây, ông làm ơn khép cửa hộ, vì phòng này hay có gió lùa.
- Ta chỉ ra khỏi đây chừng nào ta nói hết những điều cần nói với
anh. Đừng có liều can thiệp vào công việc của ta. Ta biết con Stoner đã
mò tới đây, ta đã lần theo dấu vết của nó! Ta là một người nguy hiểm!
Nhìn đây.
Lão bước nhanh về phía lò sưởi, cầm thanh sắt cời than, bẻ cong nó lại bằng đôi tay hộ pháp sạm nắng.
- Liệu hồn, chớ có để bị sa vào tay ta - lão gầm lên, vứt thanh cời than vào lò, rồi bỏ di.
- Quả là một con người dễ mến - Holmes vừa nói vừa cười lớn. -
Giá lão còn ở lại, tôi có thể cho lão thấy tay tôi cũng chẳng yếu hơn
tay lão lắm đâu. Nói chưa dứt lời, anh ta cầm thanh sắt cời than lên,
rồi lên gân uốn thẳng nó lại như cũ.
- Anh Watson, bây giờ tôi sẽ bảo dọn điểm tâm; sau đó, tôi đi
một lúc, hy vọng sẽ thu thập được một ít tin tức khả dĩ giúp chúng mình
trong vụ này.
Khoảng một giờ trưa, Sherlock Holmes trở về. Anh cầm trên tay
một tờ giấy màu xanh, chi chít những ghi chép và những hình vẽ, những
con số.
- Tôi đã được tận mắt thấy bản di chúc của người vợ quá cố - anh
nói - Tổng số lợi tức khoảng 750 bảng. Mỗi cô gái có quyền đòi 250 bảng
lợi tức khi nào họ đi lấy chồng. Như vậy, nếu cả hai cô đều lấy chồng,
thì lão bác sỹ chỉ còn được hưởng một số tiền chẳng đáng là bao; thậm
chí chỉ một cô về nhà chồng thì lão cũng đã bị thua thiệt đáng kể. Công
việc của tôi sáng nay vậy là chẳng vô ích, vì nó cho thấy lão ta có đủ
lý do rất hệ trọng để tìm mọi cách ngăn cản việc kết hôn của hai cô gái.
Và bây giờ, nếu anh đã sẵn sàng rồi thì chúng ta sẽ gọi một chiếc xe để
ra ga Waterloo. Tôi sẽ rất biết ơn, nếu anh vui lòng nhét vào túi khẩu
súng ngắn của anh. Súng với bàn chải đánh răng nữa, tôi nghĩ chúng ta
chỉ cần hai thứ đó.
Đến Waterloo, chúng tôi đáp ngay tàu lên Leatherhead, rồi thuê
một cỗ xe ngựa tại một quán trọ gần ga. Chúng tôi lên xe ngựa, băng qua
khoảng bốn năm dặm trên những con đường làng ngoạn mục của vùng Surrey.
Hôm đó thời tiết tuyệt đẹp, ánh nắng chan hoà, bầu trời hơi vẩn mây,
không khí sực nức mùi đất ẩm. Tôi cảm thấy có một sự tương phản kỳ lạ
giữa những dấu hiệu ngọt ngào hứa hẹn một mùa xuân đẹp với công việc
khủng khiếp mà chúng tôi đang theo đuổi. Bạn tôi ngồi đằng trước, đắm
mình trong những trầm tư, hai ta khoanh trước ngực, mũ kéo sụp xuống tận
mắt, cằm tì sát ngực. Nhưng bỗng anh vỗ vai tôi, chỉ tay về phía những
cánh đồng.
- Nhìn kìa! anh nói.
Một khu vườn sum suê cây cối trải dài trên một sườn đồi thoai
thoải. Giữa đám cây lá nhô lên cái mái cao của một tòa nhà cũ tàn tạ.
- Stoke Moran thì phải? - anh hỏi.
- Vâng, thưa ngài, đó là dinh cơ của bác sỹ Grimesby Roylott -
người xà ích đáp - Ngài sẽ đỡ mất thời giờ hơn, nếu đi theo lối đường
tắt băng qua đồng. Chỗ có một tiểu thư đang đi kia kìa.
- Theo tôi đó chắc là cô Stoner -Holmes phỏng đoán vậy.
Chúng tôi xuống xe, trả tiền, và chiếc xe ngựa lại lóc cóc quay về Leatherhead.
- Chào cô Stoner - Holmes nói.
Thân chủ chúng tôi chạy vội lại đón chúng tôi, vẻ mặt mừng rỡ.
- Tôi rất mong hai ông - cô reo lên, ân cần xiết tay chúng tôi.
Bác sỹ Roylott đã lên London và khó có thể quay về trước tối nay.
- Chúng tôi đã có hân hạnh được gặp bác sỹ rồi - Holmes nói, và
anh vắn tắt thuật lại những gì đã diễn ra. Cô Stoner tái mặt khi biết
chuyện đó.
- Trời ơi! - cô kêu lên. - Vậy là lão đã theo sát gót tôi.
- Chắc thế.
- Lão quỉ quyệt tới mức tôi không thể biết lúc nào mình được an toàn. Lão có nói khi nào lão quay về không?
- Chắc lão phải cẩn trọng, vì có thể lão hiểu rằng mình đã gặp
trên đường đi một người còn tinh khôn hơn chính lão. Đêm nay, cô phải
khóa chặt cửa để tránh lão. Nếu lão định làm gì, chúng tôi sẽ gửi cô đến
Harrow, ở với bà dì cô. Còn bây giờ, chúng ta phải tận dụng tối đa thời
cơ, vì vậy, xin cô đưa ngay chúng tôi đến mấy căn phòng mà chúng tôi
phải xem kỹ.
Tòa nhà được xây bằng đá xám; phần giữa cao, còn hai chái xây
cong. Mấy khung cửa sổ ở một bên chái đã vỡ, nên phải bít lại bằng những
thành gỗ. Ngói trên mát sút lở nhiều chỗ. Một cảnh tường đổ nát phơi
bày trước mắt chúng tôi. Phần giữa nhà khá hơn ít nhiều ; nhưng hiện đại
hơn cả vẫn là khối bên phải. Những tấm rèm trên mấy khung cửa sổ và làn
khói bay lên từ mấy cái lò sưởi cho thấy cả gia đình hiện sống tại phần
này. Holmes đi đi lại trên bãi cỏ, chăm chú ngắm nhìn phía ngoài mấy
khung cửa sổ.
- Tôi đoán cửa sổ này là cửa phòng ngủ trước đây cô sử dụng; cái
chính giữa là phòng của chị cô, còn cái kế cận với tòa nhà chính là
phòng của bác sỹ Roylott, đúng không, thưa cô?
- Vâng, đúng rồi. Nhưng tôi hiện phải ngủ tại căn giữa.
- Chỉ tạm thời trong lúc sửa chữa thôi, nếu tôi không lầm. À
luôn tiện cũng xin hỏi: hình như chẳng việc gì phải sửa chữa gấp như vậy
thì phải. Vì tôi thấy bức tường ở đầu nhà còn chắc lắm mà.
- Đúng vậy. Tôi tin chắc đó chỉ là cái cớ để bắt tôi phải chuyển phòng thôi.
- À! Có thể đúng thế thật. Nay, mặt trong cái chái hẹp này có
một dãy hành lang mà cả ba phòng ngủ đều ăn thông ra, phải không? Bên
phía đó chắc cũng phải có cửa sổ chứ?
- Vâng, nhưng nhỏ lắm. Nhỏ đến nỗi không một ai có thể chui qua được.
- Vậy là từ mặt đó, không một ai có thể lọt vào phòng hai chị em
cô, nếu đêm nào các cô cũng khóa chặt cửa. Bây giờ, cô làm ơn vào phòng
cô và đóng chặt mấy cánh cửa chắn lại nhé.
Cô Stoner làm theo lời Holmes, và anh cố tìm mọi cách thử mở cánh cửa chắn, nhưng vô hiệu.
- Hừm! - anh nói - Giả thuyết đầu của tôi như vậy là đã bị loại
bỏ. Không một ai có thể chiu qua ngả này, nếu cửa chắn đã bị cài chặt.
Được rồi, bây giờ thì ta thử vào phía trong, xem có phát hiện được gì
mới không.
Một cánh cửa nhỏ bên hông dẫn vào hành lang mà cửa của ba phòng
ngủ đều ăn thông ra. chúng tôi vào căn phòng thứ nhì, hiện là phòng ngủ
của cô Stoner và cũng là nơi chị cô đã gặp tai hoạ. Đó là một căn phòng
nhỏ, đủ tiện nghi, trần thấp và có một lò sưởi lớn. Một cái tủ gỗ nâu
đựng quần áo, có ngăn kéo, kê ở một góc phòng; còn góc kia là một cái
gường trắng hẹp và một cái bàn con đặt bên trái cửa sổ. Hết thảy những
thứ vừa kể cùng hai chiếc ghế dựa là toàn bộ đồ đạc trong phòng, nếu
không kể tới tấm thảm trải giữa sàn. Holmes đặt vào góc phòng một chiếc
ghế, ngồi xuống im lặng nhìn quanh toàn bộ căn phòng, không bỏ sót một
chi tiết nào.
- Sợi dây kéo chuông này ăn thông vào đâu?- mãi sau, anh mới lên
tiếng, tay chỉ vào một sợi dây giật chuông cỡ lớn buông thõng xuống sát
đầu giường.
- Nối với phòng người quản gia.
- Trông có vẻ mới hơn mọi thứ vật dụng trong phòng.
- Vâng. Vì mới được lắp cách đây vài năm.
- Chắc chị cô đòi mắc?
- Không tôi chẳng bao giờ thấy chị tôi giật chuông cả. chúng tôi toàn tự tay làm lấy mọi việc, vì nhà không nuôi người hầu.
- Xin lỗi cô mấy phút nhé, tôi muốn xem kỹ thêm sàn căn phòng một chút.
Anh bò tới bò lui, xem xét cẩn thận từng đường rãnh những tấm
ván lát sàn. Cuối cùng, anh đến cạnh giường ngủ, nhìn chằm hằm một lúc,
rồi lại đưa mắt nhìn bức tường từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên.
Đoạn, anh cầm lấy dây chuông giật mạnh một cái.
- Sao không nghe chuông reo gì cả? Thậm chí nó cũng chẳng được
nối vào sợi dây thép kéo chuông. Lạ thật! Cô nhìn kìa, sợi dây thậm chí
chỉ buộc vào một cái móc sắt nằm ngay phía trên cửa thông gió.
- Thật vô lý quá! Vậy mà lâu nay tôi chẳng để ý.
- Rất kỳ lạ! Holmes vừa lẩm bẩm, vừa giật sợi dây. Căn phòng này
có một vài điểm rất kỳ quặc. Chẳng hạn, gã thợ xây hẳn phải điên rồi
lắm mới trổ cửa thông hơi sang phòng bên cạnh; lẽ ra hắn có thể trổ ra
ngoài; cũng chỉ mất chừng ấy công thôi.
- Cái này cũng mới làm gần đây - cô tiểu thư nói
- Chắc làm cùng lúc với sợi dây kéo chuông - Holmes nhận xét.
- Vâng dạo đó có một số thay đổi nhỏ trong nhà.
- Cô Stoner, cô vui lòng cho chúng tôi sang phòng ông bác sỹ xem qua một chút.
Phòng bác sỹ Roylott rộng hơn phòng hai cô con riêng của bà vợ
trước, nhưng đồ đạc bài trí rất đơn sơ. Chỉ có một cái giường, một giá
sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một giá sách nhỏ bằng
gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một cái ghế xếp đặt sát tường, một
cái bàn tròn và một tủ sắt lớn. Holmes thong thả đi quanh phòng, xem
hết sức kỹ lưỡng từng món đồ đạc.
- Tủ này đựng gì? Holmes vừa hỏi gõ vào chiếc tủ sắt.
- Giấy tờ làm ăn của bố dượng tôi.
- Ồ, thế ra cô đã có dịp nhìn vào bên trong?
- Chỉ một lần duy nhất, cách đây vài năm. Tôi nhớ là trong tủ đầy ắp giấy tờ.
- Ông ta có nuôi gì trong đó không? Như mèo chẳng hạn.
- Không, ông hỏi gì lạ thế!
- Thề thì cô nhìn đây! - Anh cầm lên một cái đĩa lót tách nhỏ, đựng sữa, đặt trên nóc tủ.
- Không, chúng tôi không nuôi mèo. Nhưng có một con báo đốm và một con khỉ đầu chó.
À, vâng. Dĩ nhiên! Báo đốm chẳng qua chỉ là một con mèo lớn xác
thôi. Nhưng tôi nghĩ rằng đĩa sữa nhỏ này e khó lòng chu cấp đủ cho con
vật đó. Còn một điểm nữa tôi muốn làm sáng tỏ - Anh lấy kính lúp ra soi
lên mặt chiếc ghế gỗ, xem xét mặt ghế hết sức kỹ lưỡng.
- Cảm ơn cô. Thế là rõ rồi, anh vừa nói vừa đứng dậy, cất chiếc kính lúp vào túi. Chà! Món này lý thú đây!
Vật khiến anh chú ý là chiếc roi nhỏ, treo trên góc giường. Tuy
nhiên, chiếc roi ấy bị uốn cong ở đầu mút, rồi thắt lại thành một vòng
tròn.
- Watson, anh nghĩ gì về món này?
- Đó chí là một cái roi cũng bình thường thôi. Có điều tôi không hiểu tại sao lại thắt vòng ở đầu mút.
- Chẳng bình thường lắm đâu, anh không thấy sao? Tôi nghĩ tôi
xem xét xong rồi đấy, cô Stoner ạ. Điều hết sức hệ trọng là từ bây giờ,
cô nhất nhất phải làm đúng những điều tôi khuyên. Vụ này nghiêm trọng
lắm, ta không được chần chừ một phút nào nữa. Tính mạng của cô tùy thuộc
cô đấy.
- Tôi xin phó thác hết cho ông.
- Trước hết, đêm nay cả hai chúng tôi phải ở lại trong phòng cô.Cả tôi lẫn cô Stoner đều kinh ngạc trố mắt nhìn anh.
- Vâng, phải như thế mới được. Để tôi cắt nghĩa. Chắc ở đằng kia là cái quán trọ của vùng này?
- Vâng, đó là quán trọ Crown.
- Rất tốt. Từ đó nhìn sang có thể thấy được cửa sổ căn phòng cô không?
- Thấy được chứ.
- Khi nào bố dượng cô về, cô không được ra khỏi phòng, lấy cớ là
cô bị nhức đầu. Bao giờ nghe thấy lão sửa soạn đi ngủ, thì cô hãy mở
ngay cửa sổ, đặt lên bậu một ngọn đèn để báo hiệu cho chúng tôi. Xong
xuôi, cô mang hết những gì mình cần sang bên phòng cũ của cô. Tôi tin
chắc rằng, tuy đang sửa chữa, cô vẫn có thể nghỉ tạm một đêm bên đó.
- Vâng, chuyện đó chẳng có gì khó.
- Phần còn lại cô cứ để mặc chúng tôi lo liệu.
- Nhưng các ông sẽ làm gì
- Chúng tôi sẽ ngồi bên căn phòng mới của cô để tìm cho ra nguyên nhân của những tiếng động đã quấy rầy cô.
- Ông Holmes, tôi tin rằng ông đã đi đến được một kết luận - cô Stoner vừa nói vừa đặt tay lên ống tay áo của bạn tôi.
- Có lẽ cô đúng.
- Vậy xin ông cho tôi biết tại sao chị tôi chết.
- Trước lúc cho cô biết, tôi muốn có những bằng chứng hiển nhiên hơn.
- ít nhất ông cũng có thể cho tôi biết là tôi đoán định như vậy có đúng không: chị tôi chết vì nỗi hoảng sợ quá đột ngột?
- Ồ không, tôi không cho là vậy. Tôi nghĩ là có một nguyên nhân
cụ thể hơn nhiều. Còn bây giờ, chúng ta phải tạm biệt nhau, vì nếu bác
sỹ Roylott quay về mà bắt gặp chúng tôi ở đây, thì chuyển đi này coi như
uổng công. Tạm biệt cô, cô hãy can đảm lên nhé! Nếu cô làm đúng những
gì tôi dặn, cô có thể tin rằng chúng tôi sẽ sớm loại bỏ những hiểm họa
đang rình rập cô.
Sherlok Holmes và tôi thuê một phòng ngủ và một phòng khách tại
quán trọ Crown. Cả hai đều nằm ở tầng trên cùng, nên chúng tôi có thể
nhìn rõ dãy nhà đang được sử dụng trong trang trại Stoke Moran. Vào lúc
nhá nhem tối, chúng tôi thấy chiếc xe ngựa chở bác sỹ Grimesby Roylott
chạy ngang qua cửa sổ phòng trọ. Vóc người lão trông càng cao lớn bên
cạnh cậu xà ích bé nhỏ. Đến cổng, cậu đánh xe loay hoay một lúc mới mở
được hai cánh cổng sắt nạng, và chúng tôi nghe được cái giọng khàn của
bác sỹ Roylott gầm lên, trong khi lão giận dữ khua hai nắm đấm trước mũi
cậu xà ích. Cỗ xe chạy qua cổng và chỉ một lát sau, chúng tôi đã thấy
giữa lùm cây lóe lên một ánh đèn mới thắp trong một phòng khách tại nhà
lão.
- Watson ạ, quả tình tôi chưa dám chắc đêm nay có nên đưa anh đi
cùng hay không - Holmes nói khi chúng tôi đang ngồi bên nhau trong bóng
tối - Tình hình chắc sẽ nguy hiểm lắm!
- Tôi có thể giúp ích cho anh chút nào không?
- Có anh đi cùng là rất quí.
- Vậy thì tôi nhất định sẽ đi cùng anh.
- Cám ơn, anh tốt quá.
- Anh có nói đến nguy hiểm. Chắc chắn là anh đã phát hiện được nhiều điều trong những căn phòng đó hơn tôi.
- Không, tôi nghĩ rằng tôi chỉ rút ra được nhiều kết luận hơn
anh thôi. Tôi cho rằng anh cũng đã trông thấy những gì tôi trông thấy.
- Tôi chẳng phát hiện được gì đáng chú ý, ngoại trừ sợi dây giật chuông. Tôi không hình dung nổi sợi dây đó được dùng làm gì.
- Anh cũng nhìn thấy cả cái lỗ thông gió chứ?
- Có. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng có gì kỳ lạ là có một lối hở nhỏ
giữa hai phòng. Nó nhỏ tới mức một con chuột nhắt cũng khó chui quá.
- Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng phát hiện được cái lỗ thông gió đó ngay từ khi chưa đến Stoke Moran.
- Thế thì hơi quá đây, anh Holmes thân mến ạ.
- Ồ, đúng thế. Anh không nhớ là cô Stoner cho biết chị cô ấy có
lần ngửi thấy mùi khói xì gà của lão bác sỹ Roylott hay sao? Điều đó cho
thấy ngay rằng giữa hai căn phòng tất phải có một lối thông sang nhau.
Có điều cái lối thông đó phải rất nhỏ, nếu không thì viên dự thẩm đã
nhận thấy. Tôi rút ra kết luận: đó chỉ là một cái lỗ thông gió.
- Nhưng cãi lỗ đó thì phỏng có hại gì?
- Ồ, ít ra cũng có sự trùngkhớp đáng lưu ý giữa các sự việc:
người ta trổ một cái lỗ cửa thông gió ngay phía trên đầu giường, người
ta treo một sợi dây giật chuông lên, thế là cô gái ngủ trên cái giường
kia chết. Anh không thấy sự trùng khớp đó là kỳ lạ?
- Tôi vẫn chưa thấy những cái đó có gì dính dáng với nhau.
- Thế anh không thấy có gì kỳ lạ nơi chiếc giường ngủ kia sao?
- Không.
- Chân giường được gắn chặt vào sàn nhà. Đã bao giờ anh thấy một kiểu kê giường như thế chưa?
- Có lẽ chưa bao giờ.
- Cô gái không thể di chuyển được cái giường. Nó luôn được đặt
cố định bên dưới lỗ thông gió và sợi dây thừng. Chúng ta có thể gọi đó
chỉ là sợi thừng, vì người ta treo nó lên không phải để giật chuông.
- Anh Holmes- tôi reo lên - Bây giờ như tôi đã hiểu được lờ mờ
những gì anh muốn nói. Vậy là chúng ta đã có mặt vừa kịp thời để chặn
đứng một tội ác khủng khiếp.
- Phải, cũng khá khủng khiếp. Nhưng chúng ta sẽ còn phải nếm đủ
mùi khủng khiếp chừng nào đêm nay còn chưa trôi qua. Cho nên, ta hãy
bình tâm thưởng thức những tẩu thuốc này và nghĩ tới một cái gì đó vui
hơn trong vài tiếng đồng hồ,
Khoảng chín giờ tối, ánh đèn giữa các lùm cây vụt tắt, cả trang
trại bỗng chìm vào bóng tối. Hai tiếng đồng hồ nữa chậm chạp trôi
qua, rồi thình lình một ánh đèn đơn độc đã lóe sáng phía trước.
- Đó là ám hiệu của chúng ta -Holmes nói, rồi đứng bật dậy - ánh đèn phát ra từ cánh cửa sổ ở giữa.
Lát sau, chúng tôi đã xuống đường. Trời tối, gió lạnh quạt vào
mặt. ánh đèn vàng ệch đằng trước soi đường cho chúng tôi trong đêm tối.
Chúng tôi lách qua giữa những gốc cây, đến chỗ bãi cỏ, rồi băng qua nó.
Khi chúng tôi sắp trèo qua cửa sổ, thì từ trong những bụi rậm gần đó
bỗng lao tới một quái vật tựa như một đứa bé dị dạng. Nó gieo mình xuống
đất, trụ lại trên bốn cẳng chân co quắp, rồi lao qua bãi cỏ, mất hút
vào bóng đêm.
- Trời ơi! - tôi rỉ tai Holmes - Anh có trông thấy gì không?
Trong khoảng một phút đồng hồ Holmes cũng hoảng sợ như tôi. Rồi anh cười khẽ và thì thầm vào tai tôi:
- Một cơ ngơi thật khả ái. Con khỉ đầu chó đó.
Tôi đã quên khuấy mất lũ "gia súc" kỳ quặc của lão bác sỹ hiểm
độc. Thú thực, tôi cảm thấy nhẹ cả người, khi noi gương Holmes, cởi giày
và trèo qua cửa sổ vào phòng. Bạn tôi khẽ đóng cánh cửa chắn lại, đặt
ngọn đèn lên bàn, rồi đảo mắt nhìn quanh phòng.
Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi chiều. Rồi anh rón rén tiến lại gần
tôi, rỉ tai tôi, giọng khẽ đến mức khó lòng nghe rõ được từng lời:
- Chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể khiến những dự tính của chúng ta tiêu ma.
Tôi gật đầu để cho Holmes biết là tôi đã nghe thấy.
- Chúng ta phải tắt đèn ngay. Lão có thể phát hiện được ánh sáng qua lỗ cửa thông gió trên kia.
Tôi lại gật.
- Nhớ đừng ngủ gật nhé. Mạng sống của anh đang tùy thuộc vào đó.
Chuẩn bị khẩu súng để khi cần, ta có thể ra tay. Tôi sẽ ngồi ở mép
giường; còn anh, hãy ngồi tạm xuống chiếc ghế kia.
Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đặt lên góc bàn.
Holmes có mang theo một cây gậy dài, mảnh. Anh đặt nó lên mặt
giường, sát bên tầm tay. Cạnh đó, anh đặt một bao diêm và một cây nến;
xong xuôi, anh tắt đèn, và chúng tôi ngồi im trong bóng tối.
Chắc chẳng bao giờ tôi quên được cái đêm mất ngủ khủng khiếp đó!
Tôi không thể nghe được một âm thanh nào, thậm chí cả tiếng thở. Tôi
biết bạn tôi đang ngồi cách mình mấy bước, mắt mở trừng trừng và cũng
đang trong trại thái thần kinh cẳng thẳng như tôi. Cánh cửa chắn ngăn
hết mọi thứ ánh sáng, chúng tôi ngồi trong bóng tôi dày đặc. Bên ngoài
chốc chốc lại vọng vào tiếng chim ăn đêm; và có một lần vang lên một
tiếng hú dài tựa tiếng mèo kêu: hẳn là con báo đốm đã được thả. Từ xa
vẳng lại tiếng chuông nhà thờ điểm giờ: cứ mười lăm phút lại buông một
tiếng trầm trầm. Ôi, những khoảng thời gian mười lăm phút đó sao mà dài
thế! Đồng hồ điểm mười hai giờ, một giờ, hai giờ, rồi ba giờ.. ., và
chúng tôi vẫn im lặng ngồi đợi xem điều gì sẽ xảy ra.
Bỗng một ánh lửa lóe lên từ bên kia lỗ cửa thông gió, rồi vụt
biến mất ngay. Sau đó mùi dầu cháy và mùi sắt nung khét lẹt bay sang. Ai
đó ở phòng bên đã châm đèn. Tôi nghe một tiếng di động rất khẽ, rồi tất
cả lại chìm vào im lặng, tuy mùi khét mỗi lúc một nồng nặc. Suốt nửa
giờ tôi căng tai nghe ngóng. Rồi thình lình tôi nghe một tiếng động
khác, rất khẽ, tựa như tiếng luồng hơi nước thoát ra từ một ấm đun nước.
Đúng vào lúc tôi nghe thấy âm thanh đó, thì Holmes đứng bật dậy, đánh
diêm và giận dữ vụt cây gậy tới tấp vào sợi dây giật chuông.
- Anh có thấy nó không, Watson? - anh rít lên - Anh có thấy nó không?
Nhưng tôi chẳng thấy gì cả. Vào lúc Holmes đánh diêm, tôi nghe
thấy có tiếng huýt sáo khẽ, nhưng rõ.Tuy vậy, ánh lửa ở đầu que diêm đột
ngột lóe sáng đập vào cặp mắt mệt mỏi của tôi, khiến tôi không thể nói
đích xác bạn tôi đang đạp tới tấp vào cái gì. Tuy vậy, tôi có thể thấy
rõ mặt anh tái nhợt như một xác chết và đầy kinh hãi. Anh ngừng tay,
ngước nhìn chằm chằm vào lỗ cửa thông gió, rồi giữa cảnh im ắng của đêm
khuya bỗng vang lên một tiếng rú kinh hoàng mà tôi chưa từng nghe thấy
bao giờ. Tiếng rú mỗi lúc một to hơn, một tiếng rú khàn khàn, chứa đầy
đau đớn, sợ hãi và phẫn nộ. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào Holmes, còn
anh thì nhìn tôi, cho tới lúc những tiếng vọng cuối cùng của tiếng rú
kia chìm vào cảnh im ắng của đêm khuya như ban nãy.
- Thế nghĩa là thế nào? - tôi thở dốc.
- Thế nghĩa là mọi chuyện đã kết thúc, - Holmes đáp - và xét cho
cùng, kết thúc như thế là hay hơn cả. Anh cầm súng lên, chúng ta sẽ vào
phòng bác sỹ Roylott.
Vẻ mặt trang nghiêm, anh châm đèn lên và bước ra hành lang. Tôi
đi ngang anh sáng phòng bên. Anh gõ cửa hai lần, nhưng bên trong không
có tiếng đáp. Anh vặn quả đấm, rồi đi vào phòng. Tôi vào theo, súng lăm
lăm trong tay.
Một cảnh tường kỳ lạ đập vào mắt chúng tôi. Trên bàn đặt một
ngọn đèn, hắt ánh sáng chói gắt lên chiếc tủ sát với cánh cửa đang hé
mở. Ngồi trên chiếc ghế gỗ kê cạnh đó là bác sỹ Grimesby Roylott mình
choàng chiếc áo chùng màu xám; và vắt ngang trên đùi lão là chiếc roi mà
chúng tôi đã để ý tới hồi chiều. Cằm lão ta hếch lên, còn đôi mắt thì
nhìn trừng trừng vào một góc trần nhà: một cái nhìn bất động trông rất
khủng khiếp. Quanh đầu lão quấn một dải băng màu vàng kỳ dị, điểm những
đốm màu nâu sẫm. Khi chúng tôi bước vào, lão vẫn ngồi im lặng và bất
động.
- Dải băng! Dải băng lốm đốm! - Holmes khẽ thốt lên.
Tôi bước tới một bước. Ngay trong khoảnh khắc đó, dải băng bắt
đầu chuyển động. Từ đám tóc của bác sỹ Roylott ngóc lên một cái đầu có
cạnh và cái cổ ngẳng của một con rắn gớm ghiếc.
- Đó là giống rắn độc đầm lầy! - Holmes kêu lên - Độc hơn bất cứ
giống nào ở Ấn Độ. Lão ta chết mười giây sau khi bị rắn cắn. Anh hãy
nhốt ngay con rắc độc kia vào tủ sắt đã, rồi đưa cô Stoner đến một nơi
an toàn; xong đi báo cảnh sát địa phương.
Anh vừa nói, vừa rút vội cây roi trên đùi viên bác sỹ. Anh tròng đầu roi vào cổ rắn, thắt lại, rồi nhốt rắn vào tủ, đóng lại.
Đó là sự kiện đích thực về cái chết của bác sỹ Grimesby Roylott ở
Stoke Moran. Trên đường về vào sáng hôm sau, Holmes nói thêm cho tôi rõ
những việc còn lại mà tôi chưa biết về vụ này.
- Ban đầu, tôi đã kết luận hoàn toàn sai - anh nói. Điều đó cho
thấy, Watson thân mến, sẽ nguy hiểm biết chừng nào khi lý giải mà chưa
có đủ thông tin. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính việc cô gái tội nghiệp
nọ đã dùng dải băng đễ diễn tả những gì cô trông thấy nhờ ánh sáng của
que diêm và cả sự có mặt của đám Digan trong trang trại - hai thứ đó đã
gợi ra trong đầu tôi một ý nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nhưng tôi đã gạt bỏ
ngay giả thuyết đó khi hiểu rõ rằng không thể có một hiểm họa nào đe dọa
cô ấy từ phía cửa sổ và cửa ra vào. ý nghĩ của tôi nhanh chóng đổ dồn
vào cái lỗ thông gió và sợi dây giật chuông thõng xuống đầu giường, như
tôi đã có lưu ý với anh.Tôi còn phát hiện thêm được rằng sợi dây nọ chỉ
là đồ giả và chiếc giường ngủ bị gắn chặt vào gỗ lát sàn. Những chi tiết
đó khiến tôi nghĩ ngay; sợi dây kia chỉ là một thức cầu nối, giúp cho
một vật đi từ lỗ thông gío xuống giường ngủ.
Tôi đoán đó phải là một con rắn, vì biết lão bác sỹ có nhận một
số giống vật từ Ấn Độ gửi sang.Tôi cảm thấy hình như mình đã lần ra đầu
mối. Rồi tôi nghĩ tới tiếng huýt sáo. Dĩ nhiên lão phải gọi con rắn kia
về trước khi trời sáng, để khỏi bị nạn nhân phát hiện.
Lão đã luyện cho nó chắc là bằng đĩa sữa mà chúng ta đã thấy,
khi nghe tiếng huýt sáo mà lão gọi. Lão chỉ cho nó leo qua lỗ thông gió
vào thời điểm thích hợp, và biết rằng nó sẽ theo sợi dây mà bò xuống đầu
giường. Con rắn có thể cắn người ngủ trên giường, mà cũng có thể không.
Đêm đêm, cô gái có thể thoát chết trong vòng một tuần nhưng sớm muộn gì
rồi cũng bị nó cắn.
Tôi đã đi đến những kết luận đó trước khi đặt chân vào phòng
lão. Khi quan sát mặt ghế, tôi thấy lão hay đứng lên đó. Lão nhất thiết
phải làm vậy, vì không thể nào với tay tới lỗ cửa thông gió sát trên
trần nhà. Cái tủ sắt, đĩa sữa và ngọn roi đã đủ để xua tan những ngờ vực
còn lảng vảng trong trí tôi. Tiếng động mạnh do một vật bằng kim loại
phát ra, mà cô Stoner nghe được, rõ ràng do ông bố dượng gây ra: lão cần
đóng mạnh cánh cửa sắt để nhốt con vật nuôi đáng sợ đó. Sau khi đã đi
đến những kết luận đó, tôi liền tiến hành việc chứng minh, nhưng anh đã
thấy đó. Khi nghe được những tiếng động rất khẽ mà tôi nghĩ chính anh
cũng nghe rõ, tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công con vật".
- kết quả là anh đã đuổi nó bò trở lại lỗ thông gió.
Và cũng chính bằng cách đó, tôi đã xua nó về lại với ông chủ
đang ngồi ở phòng bên. Bị đánh tới tấp, con rắn trúng gậy mấy lần, nó
nổi giận và tấn vào kẻ đầu tiên mà nó chạm trán trên đường về. Và chính
vì vậy, không còn ngờ vực gì nữa, tôi gián tiếp chịu trách nhiệm về cái
chết của bác sỹ Grimesby Roylott. Nhưng chắc là việc đó chẳng đè nặng
lên lương tâm tôi lắm đâu.
--------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét