Tin đồn rộ lên trước hết trên đường phố kinh đô Huế. Thành phố đầy bụi và ẩm ướt như bừng tỉnh.
Người ta kháo nhau từ nhà này sang nhà khác, từ chùa chiền đến
chợ búa vào tận các cung các phủ, gây sửng sốt cho mọi người dân sống
trong khu phố Tây tĩnh lặng lẫn các phố buôn bán náo nhiệt, các thôn xóm
tồi tàn bao quanh tường hào hoàng cung. Đâu đâu người ta cũng bàn tán
khấp khởi hi vọng Vua Bảo Đại trở về nước nhiếp chính chắc đất nước sẽ
đổi mới.
Nguồn tin chính thức do những người Pháp làm việc ở Toà Khâm sứ Trung Kỳ loan ra
1.
Như mọi lần, phải hàng giờ sau mới đến lượt dân phố chợ dọc sông Hương
xôn xao tranh luận ầm ĩ. Lúc đầu mới chỉ quanh các sạp hàng trong chợ
sau đó lan ra các hàng quán bên ngoài, dân đi chợ mua bán xong, sà vào
các hàng ăn, thưởng thức món bún canh, hay bánh xèo đặc sản xứ Huế.
Người ta thì thầm to nhỏ rỉ tai nhau, nhưng chẳng mấy chốc đã lớn tiếng
bình phẩm vui vẻ pha chút tự hào kín đáo.
Vậy là vị Hoàng đế trẻ tuổi sắp trở về. Ông ta lại một lần nữa
ngắm nhìn thần dân, nhếch đôi môi mỏng khẽ mỉm cười nheo mắt, hoặc gật
đầu ra vẻ tán thưởng. Ông sẽ vắt vẻo ngồi trên chiếc ngai vàng của tổ
tiên để lại và cũng như họ, lặng lẽ khinh rẻ nhìn đám quan lại khom lưng
trước mặt Hoàng đế tung hô vạn tuế. Ông sẽ là một đấng quân vương anh
minh, nhân từ được người Pháp không tiếc lời ca ngợi.
Cũng như các bậc tiên đế, ông trở thành con của Trời - Thiên
tử, nửa là thần thánh trên cao, nửa là con người trần thế, là đấng
thượng đẳng toàn năng ở hạ giới người giữ thế cân bằng cho mọi tầng lớp
trong xã hội, từ nông dân đến dân chài, từ thường dân đến binh sĩ. Mọi
người thấy ở ông nguồn ánh sáng chỉ đường, làm trọng tài giữa thiện và
ác, hết thảy đều sùng bái, tôn thờ ông như mặt trời, như sấm sét dưới
bầu trời.
Ở cái xứ An Nam nóng nực và căng thẳng này, tất cả mọi người,
bất kể làm nghề gì, giàu sang hay nghèo hèn, địa vị xã hội ra sao, đều
say sưa bàn tán về chính trị, Từ đầu thế kỷ, các trào lưu tư tưởng, các
phong trào cách mạng đã khuấy động họ. Đa số dân xứ Huế đều hân hoan
hoặc dù sao thì cũng hài lòng với việe phục hưng ngai vàng đã bị bỏ
trống từ khi vua Khải Định băng hà. Ngay cả những người cách mạng, những
nhà quốc gia cực đoan tất cả đều bực bội, thấy như bị sỉ nhục trước sự
bàng quan của hàng triệu người Việt Nam khác ở Sài Gòn hay Hà Nội coi cố
đô Huế như thuộc về quá khứ rồi.
Đám đông người hiếu kỳ, những người lái đò trên sông Hương lân
la đến tận Ngọ môn, khu vực đẹp nhất kinh thành để đọc cáo thị, nhất là
những đạo dụ của triều đình.
Một đạo dụ xác nhận ý nguyện của dân chúng. Vua Bảo Đại sẽ trở
về - Một xứ sở lạ lùng phân chia thành ba miền Trung, Nam, Bắc, với ba
chế độ cai trị khác nhau ở mỗi miền biệt lập nhau nhưng tất cả đều phục
tùng luật pháp chung của quan thầy Pháp. Nhà vua chỉ có quyền hành ở
Trung Kỳ, cái xứ nhỏ bé, rất nghèo và rất xa cách các trào lưu trên thế
giới. Nước Việt Nam trước đây qui tụ ba miền nay thực tế không còn nữa.
Nội dung đạo dụ rõ ràng, cho biết chính xác tháng 9 năm 1932
vua Bảo Đại sẽ về nước, đúng dịp kỷ niệm ngày sinh thứ 20 của Ngài.
Thật đúng lúc! Bảo Đại đã ra đi từ khá lâu rồi, gần 10 năm, thần dân đang sốt ruột ngóng chờ. Tờ La Dépêche Coloniale
2
(Tin điện thuộc địa) tán tụng: "Đức Vua có biết hàng triệu thần dân
đang ngắm sao, ngóng gió, nhìn mây nước để cố tiên đoán triều đại mới sẽ
ra sao không?".
Báo chí trong nước đã đăng nhiều bài về thời gian học tập
chuyên cần của Nhà vua ở phương Tây qua các ngày lễ lạt, tưởng niệm và
những hoạt động tiêu biểu khác mà ông đã phải tham dự. Nhưng chỉ ghi
chép theo lối biên niên, được tô màu lòe loẹt về những sự việc, những
hoạt động lễ tân, báo trướe vai trò tương lai của ông không đủ nữa. Hình
ảnh Nhà vua đã gần phai lạt trong trí nhớ người dân cày An Nam. Chỉ còn
lại tấm ảnh đã vàng ố về ngày lễ đăng quang tráng lệ năm nào.
Bảo Đại lên ngôi ngày 8 tháng 1 năm 1926 ở tuổi 13. Đang học ở
Paris từ bốn năm nay, ông phải tạm nghỉ để về nước làm lễ đăng quang
vương miện trong những nghi thức trọng thể và oai nghiêm như bất kỳ vị
vua mới nào. Chưa có cải cách gì trong các nghi thức.
Ngày hôm đó, đứng trên chiếc ngai đặt dưới một cái tán rộng,
đầu đội mũ miện dát châu ngọc, được trang điểm như một chiếc hòm đựng
Thánh tích, vị Thiên tử thiếu niên lọt thỏm trong chiếc áo dài rực rỡ,
thêu hình các cành lá bằng vàng. Chân đi ủng lụa đen, vị tân quân -
thiếu niên trong tư thế uy nghi đứng trước văn võ bá quan sụp lạy trước
mặt. Lạy là một nghi thức tôn kính. Người thực hiện phải cúi rạp mình,
trán chạm đất để tỏ lòng kính trọng và thuần phục bề trên. Hai nhà sử
học Pháp là các ông Teston và Percheron đã được tham dự lễ đăng quang
viết: "Người ta có cảm tưởng mơ hồ rằng một kỷ nguyên mới bắt đầu, Nhà
vua trẻ tuổi sẽ đem lại một nỉềm hy vọng bao la..."
3.
Trời mưa bụi, hạt mưa ken dày thành một màn sương xám xịt bao
trùm lên buổi lễ. Nhà vua cảm thấy ngột ngạt hầu như bất động, đứng rụt
cổ một cách thảm hại trong hoàng bào rực rỡ. Nét mặt cố giữ tươi tỉnh
nhưng gượng gạo, khó hiểu. Như chán ngán trước tiết tấu chậm chạp và
lộng lẫy của buổi lễ.
Sau lễ đăng quang, đáng lẽ Bảo Đại đã có thể ở lại hoàng cung,
thay thế vua cha đã băng hà, đảm đương nhiếp chính. Công việc trị dân
dưới chế dộ bảo hộ chẳng nặng nhọc gì. Đã có các quan đại thần phụ
chính, đức Hoàng Thái hậu, quan Tổng lý Nội các đứng đầu cơ mật viện phò
tá nhất là các quan chức người Pháp không thiếu. Lời khuyên và quyền
lực của họ có thể bù đắp cho tuổi đời còn quá trẻ của Nhà vua.
Nhưng không thế, Nhà vua lại ra đi, tiếp tục công việc học tập
ở Pháp. Làm lễ tấn tôn nhận vương miện chẳng qua là một nghi thức,
triều đình vẫn quyết định vị vua trẻ tuổi phải quay trở lại con đường
học vấn như lời vua cha quá cố căn dặn, để có đủ tài trí đưa đất nướe
ganh đua được với thế giới. Một quan nhiếp chính đại thần đã được chỉ
định để thay thế Nhà vua vắng mặt đảm đương mọi việc triều chính.
Chắc chắn là không có gì quan trọng bằng việc dựa vào nền bảo
hộ Pháp, thông qua Paris, đưa đất nước tiến lên theo kiểu Pháp, là Pháp
hoá tối đa. Sau gần một thế kỷ tự khép mình trong chủ nghĩa bảo thủ,
triều Nguyễn nhận ra rằng phải tiến kịp thế giới, phải đi đây đi dó, xem
xét và học hỏi các nước phương tây. Sau này, vua Bảo Đại phải là ngườí
chỉ ra con đường canh tân xứ sở, là hiện thân của chính sách mở cửa đang
ngự trị trên thế giới lúc bấy giờ.
Việc tự nguyện xuất dương thời đó không có gì lạ và ngoại lệ.
Trong những năm 20 của thế kỷ, sang Pháp cũng thời thượng như đi sang
nước Anh hay Thuỵ Sĩ. Con cháu các bậc vua chúa các nước xa xôi đến Pháp
rất đông, kể cả các vị vua đã thoái vị hay bị lưu đày, hay đi làm "cách
mạng". Không nói đến các cuộc viếng thăm liên tục của các vua đang trị
vì, đến Pháp nghỉ mát ở La Rivera hay Deauville. Trong số này, không thể
tránh được sớm hay muộn, có những người muốn ở lại lâu dài không muốn
quay về nước mình nữa.
Như vậy, để chính thức trở thành vua, chàng hoàng tử thiếu
niên chỉ phải tạm nghỉ học một thời gian ngắn tại một trường nổi tiếng
trưởng giả có tên là Hattemer.
Sang Pháp từ lúc 9 tuổi, vị Hoàng đế đã mang cốt cách người
dân Paris, được dạy dỗ ở thủ đô, đi dạo chơi trên đường phố thủ đô, nếm
trải đủ thú vui của kinh thành, sống trong một khung cảnh phương tây xa
cách thần dân trong nước. Cũng tuổi thơ tầm thường vô vị như các vương
tôn công tử khác, nhưng không biết đến cuộc sống trong nhung lụa bạc
vàng đầy bí ẩn nơi cung cấm. Triều đình cử một bậc túc nho đi theo sang
Pháp để dạy Vua học thêm chữ Hán và các khuôn phép phương đông nhưng các
ông thẩy người Pháp đã nhanh chóng cách ly ông.
Thời khoá biểu trong những năm niên thiếu của Bảo Đại đã được
quy định chặt chẽ, chính xác, thích hợp với việc dạy làm vua trong tương
lai.
Một viên chức cao cấp người Pháp chịu trách nhiệm trông nom
dạy dỗ. Hàng ngày, cứ vào buổi trưa, đi học về, Bảo Đại đến gia đình ông
Charles ở phố Bourdonnais và ở đó không được đi đâu cho đến chiều tối.
Ông Charles chính là cựu Khâm sứ Pháp tại Huế, thay mặt nhà nước bảo hộ
tại kinh đô An Nam, thời thơ ấu của Nhà vua. Khi ông về Pháp, vua cha
Khải Định đã uỷ thác cho ông Charles trông nom Bảo Đại. Ông là con người
độ lượng và khoan dung chẳng những ân cẩn và chu đáo theo dõi từng bước
việc học tập tại trường mà trong dịp hè còn đưa Bảo Đại đi nghỉ ở Vichy
hay tại nhà riêng ở Prades. Có thể nói ông Charles coi Bảo Đại gần như
con cháu trong nhà.
Ngoài giờ lên lớp buổi sáng, thời gian còn lại là làm những
bài tập rất chuyên cần cùng với vài người đồng hương. Các ông thầy người
Việt được cử đến dạy chữ Hán và lịch sử An Nam, chắc chắn là các môn
học phụ này không có kết quả cho lắm. Sau này về nước cầm quyền bính Bảo
Đại thú nhận rằng ông ta gần như hoàn toàn không biết gì về lịch sử
triều đại đã dẫn đến việc quyền hành bị nước ngoài thâu tóm như thế nào.
Sau đó, Bảo Đại học lên trung học ở trường Condorcet, rồi
trường Khoa học chính trị. Ông sống trong một căn nhà dành riêng cho ông
tại 13 phố Lamballe trong ngôi nhà riêng dành cho ông. Theo báo LAsie
Nouvelle (Châu Á mới) kể lại, ngoài thời gian học, Bảo Đại chơi thể
thao. Đây là một điều mới mẻ, một cuộc cách mạng đối với hoàng gia
4.
Những ảnh chụp lúc đó cho thấy Bảo Đại mặc trang phục quần vợt, quần
soóc, áo thun trắng, hay trang phục của người chơi gôn, trượt tuyết. Lúe
nào chàng thanh niên cũng ăn mặc chỉnh tề, trau chuốt, lịch sự, điển
trai. Có thể hơi quá một chút như một tài tử điện ảnh, một công tử bột
của những năm 30, hợp với những thú vui Paris hơn là hoạt động chính
trường.
Hình ảnh cũng như sự nổi danh đó sẽ gây phiền phức cho ông ta
sau này. Thậm chí báo chí đã tố cáo nước Pháp đã có dụng ý làm hư hỏng
một thanh niên, biến anh ta thành con người nhu nhược, kém nghị lực, chỉ
biết vâng lời.
Bảo Đại thích thú với cách sống như vậy cho đến năm 1932, đã
trở thành thói quen đến mức không dễ dàng thay đổi. Trong lúc bố cáo đã
được niêm yết ở cửa Ngọ môn báo tin Hoàng đế hồi loan khiến hàng triệu
người dân Việt ngóng trông thì ông vẫn còn do dự hình như chưa dứt khoát
quyết định sẽ trở về nước.
Một buổi chiều tháng 5, ông cẩn thận đóng cánh cửa chiếc xe ô tô mình dài, mui gấp hiệu Delahaye của ông.
Ông là người say mê chơi ô tô, ở tuổi 16 ông ta đã sở hữu
trong tay nhiều kiểu ôtô. Ông có các xe tốc độ cao để đi vào các đường
phố thủ đô hay đi trên đường cao tốc từ Cannes đến Deauville. Ông lái xe
sành điệu cũng như sau này lái các máy bay thể thao và trong săn bắn
tài thiện xạ thể hiện rõ mỗi khi ông cầm súng rình một con hổ. Đối với
ông cái đẹp pha chút hiểm nguy để được hưởng thụ trọn vẹn, với một chút
kiểu cách, một chút xu thời cộng thêm một chút sang trọng và eũng rất
gần với cái chết và sự tàn bạo. Một thái độ cổ điển của các công tử ham
chơi bời của thời đại nhưng ông đã làm nổi bật tính cách đó bằng tài
nghệ riêng của ông. Ông là người có năng khiếu, lái xe giỏi và nhanh,
thoải mái, bình tĩnh mỗi khi tăng tốc độ, biết sử dụng tính năng của
động cơ, không mất thời gian để gây ấn tượng như những tay chơi kiểu
cách nhưng đôi khi cũng suýt gây tai nạn khi quành một chỗ rẽ.
Ngày hôm đó, ông lái xe trên quốc lộ 7. Ông vừa kết thúc mấy
tiếng đồng hồ vui vẻ, sau khi thành lập được một Câu lạc bộ những người
chơi du thuyền y-át ở Cannes. Đó là chuyện thường tình trong cuộc sống
của ông. Trong lúc tay ông còn chạm cần tốc độ trong chiếc xe cao tốe
Delahaye, ông đã thầm nghĩ đến cuộc sống nay mai ở nước An Nam xa xôi
kia, ông đã thoáng rùng mình e ngại.
Ở đây, tại nước Pháp, cuộc sống của ông dễ dãi, huy hoàng, có
phần phù phiếm, vô bổ. Ông cũng biết thế nhưng sẵn sàng thích nghi với
nó. Trời đã phú cho ông tính ham thích những thú vui chốc lát. Cuộc sống
tối tăm trong hoàng thành Huế cùng với sự tôn kính của thần dân làm ông
chán ngán. Ông biết lắm? Chiếc xe lướt trong đêm sẽ đưa ông đến một cái
bẫy trong đó chắc chắn ông sẽ mất hết lẽ sống. Cuộc sống ở đây chẳng có
gì phấn khởi, cũng chẳng quí tộc gì để giữ ông ở lại, nhưng ông không
thích làm vua. Ông thích cuộc sống thật của ông. Tốc độ, đàn bà và đàn
đúm với bạn bè.
Chính phủ Pháp không phải là không biết tính ông chẳng ham
thích gì trách nhiệm của vị đế vương. Về thái độ không mấy hăng hái trở
về, ông Chatel, thư ký của Phủ Toàn quyền viết: "Tôi tự hỏi không biết
ông Bảo Đại có luôn luôn tìm cách trì hoãn thêm nữa việc trở về nước
không. Nếu tôi tin vào tâm sự của một số người gần gũi với ông ta thì
quả là ông ta tỏ ra không sốt sắng lắm, không vội vã trở về để trị vì"
5.
Về phần ông Charles, ông cũng thông báo cho các bộ trưởng có liên quan
về tâm trạng Bảo Đại, học trò của ông. Ông đã cẩn thận để Bảo Đại tránh
tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, thoát khỏi ảnh hưởng bất lợi,
nhưng đã không thành công trong việc làm cho Bảo Đại ham muốn quyền lực.
Tuy nhiên tình hình không cho phép trì hoãn thêm nữa: Tại Đông Dương đã
nổ ra hai cuộc bạo loạn khiến chính phủ đặc biệt lo ngại: Một của những
phần tử quốc gia thân Trung Quốc và một do sáng kiến của những người
cộng sản. Cuộc nổi dậy thứ nhất thường được gọi là cuộc khởi nghĩa Yên
Bái nổ ra tháng 2 năm 1930. Năm mươi lính khố đỏ đóng tại dồn binh Yên
Bái đã quay súng chống lại chỉ huy người Pháp. Cuộc nổi dậy đã nhanh
chóng lan ra một số đồn nhỏ quanh vùng. Nhưng cuộc nổi dậy đã bị nhấn
chìm trong biển máu, gây ra một sự xúc động lớn ở Đông Dương và ở Pháp.
Mấy tháng sau, hàng vạn nông dân Nghệ An ở miền trung nổi dậy chống lại
chủ đồn điền thực dân người Pháp và các chức dịch người Việt. Thiếu đói
lại bị sưu cao thuế nặng, họ tống cổ các quan chức trong bộ máy cai trị
hợp pháp và thay bằng những Uỷ ban do dân chúng cử ra. Cuối cùng 6000
người biểu tình tuần hành về thành phố Vinh, thủ phủ tỉnh Nghệ An, quân
đội lê dương đã chặn họ lại và lại đổ máu nữa!".
Các hồ sơ lưu trữ của Phủ Toàn quyền Pháp cho biết cùng thời
gian đó triều đình Huế cũng sôi sục những mưu toan thủ đoạn thầm lén.
Các quan thượng thư trong triều cũng không ngồi yên. Công việc điều hành
nhiếp chính trở nên khó khăn. Quan đại thần đứng đầu Viện cơ mật cũng
gây không ít khó khăn cho chính quyền bảo hộ.
Tại Paris, chính nghị viện cũng sục sôi đòi cải tổ. Edouard
Daladier, thay mặt cho phe cấp tiến và Marius Moutet, thuộc đảng xã hội,
cả hai tố cáo "nồi hơi" Đông Dương đang sôi sùng sục. Trước mắt, nhờ
đàn áp các cuộc phản kháng người ta đã giữ để không bị bật nắp. Tình
hình đã có phần lắng dịu, lúc này Nhà vua có thể trở về nước.
Làm sao có thể thuyết phục được Nhà vua trẻ lên đường về nước.
Chỉ mình ông mới có thể tháo gỡ cuộc khủng hoảng, trở thành một đồng
minh của nền bảo hộ mới, tự do hơn và quan tâm hơn đến lợi ích của người
An Nam.
Eugène Chatel ngày càng tỏ ra bực bội trước những do dự của
Bảo Đại. Ngồi trong văn phòng của ông tại Hà Nội, ông liên tiếp đưa các
đề nghị, cố sức làm cho ngày trở về của Bảo Đại thành một màn kịch tán
dương và thành phố Huế sầu thảm trở thành một thành phố thời thượng
6.
Bảo Đại là quân cờ cần thiết, có vai trò chính trên bàn cờ Việt Nam.
Trong lúc này, ông vua trẻ vẫn ở hàng dự bị, sống thu mình ở chính quốc
là điều không tưởng tượng được. Ông ta phải trở về bằng bất cứ giá nào,
và chính quyền bảo hộ đã sẵn sàng trả giá cho việc này. Chatel, con
người thông minh và nhiều mưu mô xảo quyệt ra sức tô vẽ cho dự án. Ngày
này sang ngày khác, bức tranh do viên chủ sự đáng nể trọng của Phủ Toàn
quyền Đông Dương phác hoạ ngày càng đầy đặn, mang dáng vẻ sử thi và tính
anh hùng ca. Để chuyến trở về của vị vua trẻ này được huy hoàng tráng
lệ, người ta đã hứa sẽ làm như César ở kinh đô La Mã hay Napoléon ở
Austerlitz. Phải làm cho nước An Nam có sức hấp dẫn nhất là biết giữ ông
ta ở lại đó nếu may ra vị Hoàng đế cuối cùng chấp nhận từ bỏ các thú
vui tắm biển hay thói ăn chơi của xã hội thượng lưu.
Trong lúc ông Chatel bóp trán nghĩ ra mọi điều có thể cám dỗ
vị Hoàng đế trẻ, thì tiết xuân ẩm ướt ở Bắc Kỳ còn dễ chịu hơn thường
lệ. Năm đó không một trò vui nào ở vườn hoa hay các cuộc dạo chơi tổ
chức quanh hồ Hoàn Kiếm có thể làm xua tan được cái cảm tưởng bất an và
nghi ngờ dai dẳng trong tâm trí người dân xứ Bắc. Không nản chí, viên
Tổng thư ký Phủ Toàn quyền viết nhiều báo cáo về Bộ Thuộc địa, biện hộ
sự cần thiết cần có nghi thức thật tráng lệ huy hoàng, đòi chi thêm
tiền, thêm điều kiện dễ dàng. Tương lai của triều đại phụ thuộc một phần
vào các điều kiện vật chất và tinh thần cho việc trở về. Ông viết trong
báo cáo mật ngày 2 tháng 12 năm 1931: "Chúng ta nên cố gắng, không tiếc
sức..."
7.
Từ bây giờ vai trò của vị Hoàng đế trẻ tuổi đáng để các cấp
cao nhất của Nhà nước Pháp phải chú ý đến số phận của ông ta. Vì lẽ đó
các kế hoạch do viên Tổng thư ký Phủ Toàn quyền đề đạt đã được thông qua
ở cấp cao nhất.
Trước hết là cuộc hành trình trở về nước. Phải tổ chức thật
rầm rộ như một đám rước mang tính phô trương. Ông Chatel khẩn khoản xin
để các tàu chiến đến đón vua khi chuyển từ tàu viễn dương tại cảng Sài
Gòn rồi đưa thẳng về Đà Nẵng sau đó mới ra Huế bằng đường bộ. Bản báo
cáo nhấn mạnh tất cả các nghi lễ phải được tiến hành trọng thể tối đa.
Ai sẽ tháp tùng Nhà vua khi trở về nước? Dĩ nhiên là vợ chồng
ông Charles. Tốt hơn là hai ông bà nên đi sớm để không gây cảm tưởng
rằng Nhà vua hãy còn ở "tuổi vị thành niên kéo dài, nói một cách khác,
còn quá trẻ con để làm cái việc trọng đại là cai trị muôn dân". Ngoài ra
cũng nên để một số người An Nam đi theo. Một danh sách ngắn ngủi được
đưa ra nhưng ít người biết rõ là gồm những ai. Còn ông Chatel thì "lăng
xê" ngay một chiến dịch quảng bá rùm beng để ít nhất chấm dứt thái độ
nửa lạnh lùng của dân chúng. Nhiều cuộc nói chuyện được tổ chức cho các
quan lại, công chức, học sinh. Báo chí nên bỏ đi lối đưa tin có vẻ chính
thức như đăng tải các thông cáo, chỉ thị, hướng dẫn của Toà Khâm sứ
Trung Kỳ ban ra mà viết dưới dạng đưa tin bình thường kèm các phóng sự,
cảm nghĩ của dân chúng trước sự kiện trọng đại này. Cuối cùng là ảnh
chân dung Bảo Đại. Các độc giả mua báo dài hạn sẽ được phát không ảnh
chân dung cỡ lớn đồng thời hàng vạn bưu ảnh in chân dung vị vua trẻ tuổi
cũng được phát hành rộng rãi. Điện ảnh cũng được huy động vào công việc
tuyên truyền này. Chính quyền Bảo hộ sẽ tài trợ bằng cách mua lại những
đoạn phim thời sự quay quang cảnh đón rước, các nghi lễ tiếp tân... và
sẽ được chiếu rộng rãi trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng ông Chatel còn đi
xa hơn nữa. Ông lấy làm vui thích khi đưa ra những sáng kiến mới cho
việc tuyên truyền này. Ví như ông nghĩ ra việc sáng tác những bài hát
theo kiểu hát xẩm ngoài phố mà nội dung hướng về ca ngợi vị tân Hoàng
đế. Phủ Toàn quyền Đông Dương thấy cần phải sáng tác ra các điệp khúc ca
ngợi sự nghiệp vinh quang của Nhà vua. Khoảng một chục nhạc sĩ sáng tác
được huy động để bắt tay vào việc, sao cho bài hát phải giản dị, dễ
hiểu hợp niêm luật với các làn điệu dân ca, ai cũng có thể hát và thuộc
lòng. Trong việc quảng cáo này, dù sử dụng các phương tiện như thế nào,
sự can thiệp của chính quyền phải được giữ kín. Những báo cáo dài lê thê
của ông Tổng thư ký Phủ Toàn quyền gửi về Paris đụng tới mọi lĩnh vực,
ngay cả những lĩnh vực thầm kín nhất. Chính quyền biết rằng không phải
đơn thuần là niềm kiêu hãnh hay sự lòe loẹt sẽ quyết định vai trò của vị
vua trẻ. Một lần nữa phải làm mọi việc để ông ta có ý muốn nắm lấy con
thuyền quốc gia mà các nhà đương cục Pháp đã chuẩn bị cho ông. Toà điện
bao la sẽ được dùng làm tư dinh của Nhà vua - điện Kiến Trung, một trong
mười hai toà điện nguy nga trong Tử Cấm thành phải được tân trang lại.
Xây một cung điện mới thì tốn kém quá, nhưng mặt ngoài của cái cung điện
cũ kỹ kia sẽ giữ nguyên còn bên trong thì cái chính là cần sắp xếp lại,
thay đồ đạc bên trong quá cổ lỗ, cải tạo nội thất, thay thế đồ trang
trí cũ. Về đây Nhà vua có thể cảm thấy mình đơn độc giữa các ông già râu
dài hủ lậu của Tử Cấm thành. Các nhà đương cục sẽ đưa đến đây những bạn
bè thanh niên cùng trang lứa, có thể trở thành bạn thân, có nhiệm vụ
tái tạo từng phần môi trường xung quanh Nhà vua, tạo một khung cảnh vàng
son và thân thiện để ông quen dần mà tiến hoá theo. Chính quyền Bảo hộ
bổ nhiệm một loạt sĩ quan và viên chức trẻ. Những thanh niên độc thân
được giáo dục tốt và tác phong giao tiếp tuyệt vời và nhất là phải kín
đáo.
Chính quyền còn có ý định luôn thay thế bằng những người mới
(3 năm/lần) để họ không gây được ảnh hưởng quá lớn đối với Nhà vua. Còn
phụ nữ? Có điều lạ là vấn đề này không được đề cập đến trong báo cáo mật
của ông Chatel được coi như nhà ảo thuật của phủ Toàn quyền, nhưng đó
là những vấn đề tự nhiên là phải có và thực tế không gây ra khó khăn
thật sự nào.
Còn những tin đồn ác ý được nêu ra trong một bức thư của Bộ
Thuộc địa ngày 24 tháng Giêng năm 1926 nói rằng Bảo Đại không phải con
vua Khải Định đã quá cố, mà đúng là con của một trong các bà phi của
Khải Định với một nhân vật quý tộc trong triều. Lại phải làm mọi việc để
những tin đồn như thế phải được dập tắt ngay?
8
Nhưng ta không nên dừng lại ở một vài biện pháp liên quan chủ
yếu đến những tiện nghi trong cuộc sống của Nhà vua. Ông Chatel không
đánh giá thấp vấn đề này. Ông còn lôi kéo Nhà vua bằng những đòn có
tiếng vang lớn về chính trị. Nhà vua phải đạt được những thành tích hiển
nhiên, tiến hành những cải cách phổ cập rộng rãi để dân chúng thấy rằng
đất nước của họ nay đã tìm được người đứng đầu chính đáng. Chính quyền
bảo hộ liền chuẩn bị một loạt biện pháp giả danh cách mạng sẽ được ban
bố khi Nhà vua trở về.
Hồ sơ dày cộm những bản báo cáo dài đều đi đến kết luận như
nhau: nước An Nam cần có một vị Hoàng đế thật sự thông minh, biết điều
khiển thành thạo và có hiệu lực bộ máy cai trị bao gồm những quan lại
trung thực, tiên tiến. Những người này sẽ truyền đạt những quyết định
của cấp trên để thực hiện ở cấp xã thôn là những tế bào cơ sở của xã hội
An Nam. Tất cả đều hoàn hảo, tiến hành theo hình tháp, lôgic và đơn
giản.
Những viên chức của chính quyền bảo hộ không muốn thấy đứng
đầu Triều đình là những ông vua điên dại ốm yếu (như Thành Thái) hay
biến chất (như Duy Tân) khiến họ phải cai trị trực tiếp mà chính họ cũng
không muốn. Chính quyền bảo hộ muốn có một ông vua được đào tạo có bài
bản, được rèn luyện, biết suy nghĩ đúng đắn gần giống như họ. Nhưng các
bản báo cáo đó, thường là sáng suốt và khôn khéo, cho thấy rõ không một
quyết định của Nhà vua dù ít màu nhiệm nhất, cũng không thể đem lại hiệu
quả nên không được quan Toàn quyền hay Thống sứ, Khâm sứ người Pháp ký
tắt trước. Tất cả mọi người đều tập dượt trong trò chơi kỳ cục đó để bộ
máy hai trăm công chức người Pháp có thể điều khiển tám triệu người An
Nam. Gần như một bài tập về phong cách. Một bài học về chủ nghĩa thực
dân. Tất cả đều phải tế nhị và chặt chẽ. Để được như thế phải có một ông
vua. Trình độ học vấn vừa đủ, tất nhiên là thân Pháp, chắc chắn là phải
thông minh, nhưng con chim quý đó không được coi mình là cứu tinh của
nhân dân như Jeanne d Are của nước Pháp hay như hai chị em Bà Trưng năm
41 đã đuổi quân Hán khỏi Việt Nam. Tóm lại, vị vua đó phải có đủ trí, đủ
tài trừ cái tính cách và tính cả gan chống lại họ. Vậy vua Bảo Đại có
phải là con người chính quyền bảo hộ đang tìm đến không? Nhưng trước hết
và ngay cả trước khi đặt ra vấn đề này, Bảo Đại phải rời khỏi Paris,
phải chấp nhận một thời hạn đã được chính phủ Pháp ấn định phù hợp với
số mệnh, là tháng 9 năm 1932.
Chiếc xe Delahaye đỗ trước cửa căn nhà phố Lamballe ở lưng
chừng đồi Passy. Ánh sáng còn chiếu sáng ở tầng cuối cùng. Những người
thân cận của Nhà vua đều có mặt. Một người anh em họ, một cận vệ đều là
những bạn bè chí cốt và hiếm hoi lâu nay của ông.
Hết thảy mọi người đều ép Nhà vua trở về nước nắm quyền bính.
Tất cả, như ông Chatel, như Bộ trưởng Thuộc địa hay Bộ trưởng Ngoại giao
cho đến cả Tổng thống Pháp cũng cho biết niềm vui mừng được thấy Nhà
vua trở về. Xem ra khó mà từ chối kế hoạch mà ông Chatel đã dày công
chuẩn bị. Không còn có chuyện lần lữa, tìm một cái cớ hay điều bất trắc
cuối cùng để từ chối lên đường. Chiều hôm đó, Bảo Đại đã chấp nhận.
Được, ông ta sẽ trở về mảnh đất tổ tiên. Nhưng trước khi rời Paris mà
ông hằng yêu mến, ông nói rõ ông có ý định sẽ quay trở lại Pháp. Và sẽ
trở lại luôn hoặc lâu lâu mới trở lại. Ông đòi hỏi điều này và được chấp
nhận.
Việc trở về An Nam của Hoàng đế là một hành động có ý nghĩa
quan trọng về mặt chính trị. Đã có sớm một giải pháp mà hai mươi năm sau
người ta gọi là "giải pháp Bảo Đại". Từ chục năm nay, vua kế vị làm lễ
đăng quang rồi mà ngai vàng vẫn để trống. Nước Pháp đã gây cảm tưởng là
một mình cai trị An Nam. Việc Nhà vua trở về, trước mắt mọi người, phải
chứng minh cho ý muốn của nước Pháp là muốn giảm nhẹ sự bảo hộ của mình.
Theo các điều khoản của Hiệp ước ký 50 năm trước, chính quyền bảo hộ lo
việe giúp đỡ, tổ chức và bảo vệ Đông Dương, còn công việc nội trị trong
từng nước trên bán đảo sẽ do nhân dân nước đó tiến hành. Thời gian qua
những quy tắc đẹp đẽ đó đã trở thành điều hoàn toàn tưởng tượng.
Hoàng đế An Nam trở về ngự trị ngai vàng của mình là dấu hiệu
cho thế giới và dư luận về một bước ngoặt trong chính sách thuộc địa của
Paris, trở lại với tinh thần của Hiệp ước 1884.
Cũng vào thời điểm này, ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp
họp kín tại 120 phố Chateaudun. Tám người có mặt, một người Âu và bảy
người Việt. Trong chương trình nghị sự có mục: "Hoàng đế trở về nước và
việc ám sát Bảo Đại". Tất cả mọi người có mặt đều tuyên bố ủng hộ việc
xử tử Bảo Đại. Sẽ tổ chức bốc thăm, ai trúng sẽ được giao thi hành nhiệm
vụ.
Một người tên là Phạm Văn Điều được chỉ định thực hiện bản án
tử hình Bảo Đại ở Paris. Một người Việt khác tên là Nguyễn Đình Tính tức
"Blinov" có trách nhiệm tổ chức một vụ thứ hai, lần này ở Marseille khi
Nhà vua bước lên cầu tàu thuỷ
9.
--------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét