ANH VIỆT THU
Thế hệ nhạc sĩ
sau cùng ở miền Nam
Tên thật Huỳnh Hữu Kim Sang, sinh năm
1939 tại An Hữu – Mỹ Tho (Định Tường) nay là Tiền Giang. Tốt nghiệp Hòa
âm Trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn năm 1963.
Thụ huấn điều khiển giàn nhạc với nhạc
trưởng Otte Soelner. Đệ trình luận án Âm-nhạc-học với đề tài : “Không có
Tiếng Động trong Âm Nhạc” tại Nhạc viện Tokyo – Nhật Bản năm 1963.
Trưởng Đoàn Văn Nghệ Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia niên khóa 1958-1959
Chủ tịch Sinh viên Trường Quốc Gia Âm
Nhạc Sài Gòn 1963 – Hát với tuổi trẻ Biên Hòa (1960-1965) – Thành lập
Đoàn Du Ca Phù Sa hát dạo từ Cần Thơ ra Huế trong những năm 1965-1966
Những ca khúc đầu tiên được phổ biến từ năm 1956 : Giòng An Giang, Đường Này Anh Về Đâu…
NHỮNG TÁC PHẨM CHÍNH:
- Dạ khúc Kim Sang (10 bài nhạc không lời cho vĩ cầm và dương cầm) Giải Cantorum Schola – La Mã 1962
- 20 ca khúc Anh Việt Thu phổ biến trong những năm 1964-1968
- Xuân Nguyễn Huệ (trường ca) Giải Đài Phát Thanh Sài Gòn 1966
- Đường chúng ta đi (liên ca)
Ngoài ra đã soạn thảo khoảng trên 200 ca
khúc phổ thông. Cùng với Thiên Hà chủ trương chương trình “Phù Sa”
ca-ngâm-diễn-đọc, và “Tuần báo Văn Nghệ Truyền Thanh” trên làn sóng phát
thanh Sài Gòn (1966 -1968)
Chủ trương “Giờ Âm Nhạc Anh Việt Thu” trên đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam từ năm 1971
Hợp tác với hãng đĩa Việt Nam thực hiện
một số album như “Bóng Mát Việt Nam”, “Rạng Đông Trên Quê Hương Việt
Nam”… dự báo tín hiệu hòa bình đầy ấn tượng trong những năm 1972-1974
Do căn bệnh hiểm nghèo, sau 103 ngày vật
lộn với thần chết qua các bệnh viện Rall, Tổng Y Viện Cộng Hòa, Y Viện
Quảng Đông, người nhạc sĩ tài hoa ấy đã trút hơi thở cuối cùng hồi 2 giờ
40 phút ngày 15-03-1975 nhằm ngày mùng 3 tháng 2 năm Ất Mão.
Lời trần tình của Anh Việt Thu
… Là những bài tình ca mang bóng dáng
những khuôn mặt người yêu và bạn bè, dĩ nhiên có chia ly từ giây phút
sum họp, có đau khổ tận cùng trong hạnh phúc vời vợi trong niềm kiêu
hãnh vô biên trong tuyệt vời của tuổi trẻ. Là những bài hát đã viết
trong suốt quãng đời trẻ tuổi xem như những đóa hoa cỏ dại rải rác bên
đường… Và là những dấu hằng năm tháng trên lưng con ngựa già. Không là
tường trình đúc kết bởi chân, tác giả còn hơi thở nhịp đi, còn quờ quạng
bò lết, còn chạy nhảy trèo leo, còn bồng bế nâng niu không hơn một loài
dã thú giữa cội rừng già buồn hiu…
Lời cuối
Trong giây phút chờ đợi ấn hành, tác giả
xin dành lại sự quyết định sau cùng, có thể bán hoặc cho không từng bài
hay xóa bỏ tất cã những bài hát trong tuyển tập này và xin xem như không
có tác giả trong cái xô bồ của làng nhạc ở đây nữa.
Trân trọng xin giới thưởng ngoạn nghệ
thuật đón nghe và đón xem, nhưng đừng đợi chờ. Lời cuối cùng là lời chân
thành cảm tạ và có thể là lời tạ từ, bởi chân, sự an nghỉ là linh dược
cho người điên.
Để từ đó, tác giả yêu Phạm Công Thiện Và từ đó, thương Nguyễn Đức Sơn vô cùng… (AVT)
Cuộc đời của người nhạc sĩ
Nhạc sĩ Anh Việt Thu tên thật là Huỳnh
Hữu Kim Sang quê Cái Bè – An Hữu thuộc tỉnh Tiền Giang. Bút danh nầy
theo lời anh Vũ Anh Sương (làm thơ – bạn của Anh Việt Thu ) xuất phát từ
câu chuyện gia đình : tên Việt Thu là em trai của ông, do ông phải bảo
bọc người em nên đặt tên như thế để nhớ trách nhiệm của mình tức “anh
của Việt Thu”.
Anh Việt Thu hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn
vào những năm 70. Các bài hát của ông đã quá quen với chúng ta như Đa
tạ, Người ngoài phố, Tám điệp khúc, Hai vì sao lạc, Người đi ngoài phố..
Vào năm 1964 nhạc sĩ Anh Việt Thu từ Sài
Gòn lên Tây Ninh dạy học ở trường Nam (nay là trường PTTH Trần Hưng
Đạo). Có thể nói ông là người đầu tiên đưa âm nhạc vào học đường thời
ấy. Lớp học trò bây giờ ở trên tuổi ngũ thập tri thiên mệnh, vẫn còn nhớ
bài hát mang điệu valse ngọt ngào mà thầy Thu đã dạy :
“Dòng An Giang sông sâu nước biếc, dòng An Giang cây xanh lá thắm,lã lướt về qua Thất Sơn….
“Dòng An Giang đáy nước in sâu, nhịp cầu tre ngắm bóng say sưa, nắng vẫn chiếu trên làn nước nhấp nhô…
“Đây những người thôn nữ xinh duyên dáng chuyền tay dắt nhau múc mấy vầng trăng đổ đi…”
Ông dạy nhạc có những nét độc đáo khó
quên, lúc ngẫu hứng cùng thầy đi bộ từ chợ cũ – thị xã (nơi ông thuê nhà
luật sư Đinh) xuống dốc sương mù Mít Một vào khu vườn sầu riêng của hai
người bạn tên Muông -Trâm để vui chơi ca hát. Lương bổng thời đó rất
khá (tương đương một chiếc xe Honda Nhật) nhưng do tánh nghệ sĩ nên cũng
túng thiếu dài dài, có lần ông phải bán chiếc radio 3 band để trả tiền
thuê nhà (nên nhớ thời đó có cái radio là quý, nghệ sỹ càng quý hơn vì
để nghe nhạc của mình.)
Đời nghệ sỹ là vậy, xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử từng than : Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Ông là một trong những người đưa những âm
điệu nhẹ nhàng bình dân vào nhạc cùng với các nhạc sỹ Trúc Phương, Châu
Kỳ, Minh Kỳ. Lam phương… (Như điệu boléro, ballade, habanera…) và đã
từng đỗ hạng ưu khoá I trường quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn.
- Trong một dịp xuống Cẩm Giang vào năm
2005, tôi được Vũ Anh Sương cho xem bức thư ông gửi khi sáng tác xong ca
khúc Đa Tạ, lời thư rất cảm động : “Mình vừa sáng tác xong 2 bài, độ
trung tuần tháng tư trở đi cậu đón nghe đó là Chân dung và Đa tạ. Hiện
mình chưa in ronéo, cuối tháng tới mình in luôn, cậu nhớ mua cái radio
nho nhỏ nghe nhạc mình xem sao? Mình vẫn sống vất vưởng cù bất cù
bơ…(thư đề ngày 31/3/66)
Cũng vào thời ấy, nhạc sĩ Anh Việt Thu
phổ một bài thơ hay của thi sĩ Trường Anh, một nhà giáo ở Gò Dầu, bài
“Mưa Cẩm Giang” trích trong tập thơ “Mưa Đêm Nay” xuất bản năm 1964 được
thi sĩ Vũ Hoàng Chương đề tựa.
Năm 1972,nhạc sĩ Anh Việt Thu là một
trong 12 nhạc sĩ du ca có mặt trong tuyển tập nhạc “Hát cho những người
sống sót “ (Bút nhạc xuất bản 1973) ông đã viết : Một ngày Việt Nam thơm
lừng hòa bình, một ngày Việt Nam bay tràn thế giới…
Đến năm 1975 ông qua đời tại Sài Gòn, hiện còn người vợ là bà Trần Nữ Hiệp và con trai Việt Bằng sống ở Sài Gòn.
- Với Anh Việt Thu phải nói là người bạn
thâm giao của Thiên Hà. Anh Việt Thu đã phổ nhạc rất nhiều bài thơ của
Thiên Hà và bài nào cũng nổi tiếng đi vào lòng người cho đến tận hôm nay
như : Gió Về Miền Xuôi, Nhớ Nhau Hoài, Xa Dấu Ngựa Hồng…v..v.
Do cơn bệnh hiểm nghèo những ngày cuối
đời Anh Việt Thu tâm sự với Thiên Hà , anh mơ ước có một căn nhà bên
cạnh dòng sông như ở Tân Qui, đường Trần Xuân Soạn hay Bình Đông. Có lẽ
anh muốn ngắm nhìn dòng nước mỗi ngày như ở vùng An Hữu quê anh thời thơ
ấu.
Khi Thiên Hà đẩy xe đưa Anh Việt Thu vòng
quanh bệnh viện cho khuây khỏa chuyện các thầy thuốc đã bó tay. Qua
khoảng sân còn sót từng giọt nắng chiều Anh Việt Thu nhìn bầu trời bao
la mà thèm những bông hoa nắng. Hiểu ý bạn Thiên Hà hái một đoá Mẫu Đơn
bên vệ đường an ủi, động viên bạn mình. Nhưng rồi cơn bệnh nan y đã ngắt
đi cuộc sống của nhạc sỹ Anh Việt Thu tại Y viện Quảng Đông (nay là
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương) Sài Gòn lúc 2giờ 40 ngày 15 tháng 03 năm
1975 và đưa đi an táng tại quê nhà.
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết :
- Anh Việt Thu mất sớm. Những ngày còn
làm việc tại Phòng Văn Nghệ thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (do
Thiếu Tá Ðinh Thành Tiên, tức Thi sĩ Tô Thùy Yên làm trưởng phòng), Anh
Việt Thu chắc chỉ mời ngoài 30 tuổi. Nếu chúng tôi nhớ không lầm thì khi
ấy, cùng làm việc trong Phòng Văn Nghệ còn có nhạc sĩ Trần Thiện Thanh
tức ca sĩ Nhật Trường nữa. Chính trong thời gian này, Anh Việt Thu khám
phá bị ung thư nhiếp hộ tuyến (hay phổi?) rồi qua đời.
Như thế ca khúc “Dòng An Giang” hẳn đã
được Anh Việt Thu viết vào những năm ông còn rất trẻ, ở độ tuổi chưa đến
20, vì bài hát đã nổi tiếng trước đó nhiều năm.
Những người quen biết Anh Việt Thu cho biết, ông là người ít nói. Ông hiền lành và sống với bạn bè rất nhiệt tình.
Có một thời ông muốn làm nhà xuất bản nhạc, nhưng hình như chỉ in được một, hai tập nhạc ngoại quốc lời Việt, rồi thôi.
Có
thể coi Anh Việt Thu là thế hệ nhạc sĩ sau cùng sinh trưởng tại miền
Nam (nếu lấy ngày 30/04/1975 làm dấu mốc) những người viết nhạc với tâm
hồn đôn hậu của người miền Nam, ít cầu kỳ, cả trong giai điệu lẫn ca từ.
Nghe nhạc Anh Việt Thu người ta nghĩ đến những kinh rạch chứ không phải
những ao hồ. Ao, hồ có một vẻ gì đó u uẩn, tù túng. Kinh, rạch, như
lòng người miền Nam, khi thủy triều rút đi, khô cạn, phơi mở không còn
gì giấu giếm, lúc thủy triều trở lại, lại kín đáo, tràn đầy. Như bài
“Dòng An Giang”.
“Tám Ðiệp Khúc” của Anh Việt Thu là một
tình khúc. Nhưng ông đã nhập cái tình riêng của mình vào với tình yêu
quê hương, đất nước. Một đất nước tràn ngập điêu linh, tang tóc, mỗi
tiếng hát như một lời thở than, kêu gọi yêu thương nhiều hơn là tỏ tình.
Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có lần nói rằng, ông rất thích bài hát này của
Anh Việt Thu, mặc dầu nghe cả bài trong một lúc khó nắm bắt tác giả nói
gì, nhưng nghe từng đoạn tách rời, âm điệu day dứt của nó làm cho rất
buồn…
Những nhạc phẩm thành danh của Anh Việt Thu
Đa tạ
Tôi xin đa tạ ngày nao súng phải thẹn
thùng, / Ngày nao súng phải lạnh lùng. / Nắng hạ vàng rưng rưng mây
trắng / Ôi mây xõa tóc nghiêng nghiêng. / Xin đa tạ người em bé bỏng mặn
mà, / người em bé bỏng thật thà. / Nắng hạ vàng rơi phủ bờ vai. / Lời
ai ru gió hiu hiu buồn.
Tôi xin đa tạ lời ca tiếng ru ru mềm, /
lời ca tiếng ru êm đềm / Ôi lời ca đã xua chinh chiến / ru chim trắng
trắng tung bay. / Xin đa tạ giòng máu thắm đỏ ruộng cây, / Giòng máu vẫn
chảy miệt mài / Xin lời ru xua hãi hùng đi./ Lời ai ru gió hiu hiu
buồn.
(Lời 2)
Tôi xin đa tạ mồ hôi nhỏ giọt dầm dề / Mồ
hôi nhỏ giọt tràn trề / Trên đồng sâu hay trên ruộng lúa / xanh thăm
thẳm mắt em thơ / Xin đa tạ lời ca ấp ủ vỗ về / Lời ru ấp ủ não nề /
Nắng hạ vàng rơi phủ bờ vai / Lời ai ru gió hiu hiu buồn.
Tôi xin đa tạ lời ca lời ca đã xua bạo
tàn / Lời ru đã xua phũ phàng / Nắng hạ vàng rưng rưng mây trắng / ôi
mây xõa tóc nghiêng nghiêng. / Xin đa tạ ngày nao súng phải thẹn thùng /
ngày nao súng phải lạnh lùng. / Xin lời ru xưa hãi hùng đi. / Lời ai ru
gió hiu hiu buồn
Tám điệp khúc
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím
dệt thành sầu / Bàn tay năm ngón mưa sa / Dìu anh trong tiếng thở / Đưa
tiễn anh đi vào đời / Mẹ Việt Nam ơi! Hai mươi năm ngăn lối rẽ đường về
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím
dệt thành sầu / Bàn tay đón gió muôn phương / Bàn tay đan gối mộng / Đưa
tiễn anh đi vào đời / Mẹ Việt Nam ơi ! Ai chia ly tan tác cả ngàn đời
Tiếng hát hát trên môi / Giấc ngủ ngủ
trong nôi / Một đàn, đàn chim nhỏ bay khắp trời Việt Nam mến yêu / Ôi
tiếng chim muông gọi đàn / Mẹ Việt Nam ơi! Con xin dâng hiến trọn cả đời
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím
dệt thành sầu / Nằm nghe tiếng hát đu đưa dìu anh trong giấc ngủ / Ôi
tiếng ru ru ngọt ngào / Mẹ Việt Nam ơi ! Ai chia ly tan tác cả ngàn đời
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím
dệt thành sầu / Từng đêm ấp ủ trong tim / Từng đêm khe khẽ gọi / Anh nhớ
thương em từng giờ / Mẹ Việt Nam ơi! Ai chia ly tan tác cả ngàn đời
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím
dệt thành sầu / Trùng dương sóng nước bao la / Trùng dương vang tiếng
gọi / Ôi sóng thiêng em về Trời / Mẹ Việt Nam ơi! con xin ghi xin khắc
nguyện lời thề
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím
dệt thành sầu / Rừng thiêng lá đổ âm u / Rừng thiêng vang tiếng gọi / Ôi
núi thiêng em về nguồn / Mẹ Việt Nam ơi ! con xin ghi xin khắc nguyện
lời thề
NHỚ NHAU HOÀI
(Nhạc Anh Việt Thu – lời thơ Thiên Hà)
Em ở nơi nào ? / Có còn mùa xuân không em
/ Rừng ngàn lá gió / Từng đêm nhắc nhở thì thầm / Nắng ở trên đầu nắng
trong lòng phố / Gió ở trên non gió cuốn mây về
ĐIỆP KHÚC
Sao em vẫn ngồi mà nghe cô đơn / Mà nghe
nức nở trong hồn / Và thương đôi mắt nhỏ em buồn / Vì mình yêu nhau / Vì
mình thương nhau nên mới giận hờn / Vì mình xa nhau nên nhớ nhớ nhau
hoài
Em ở nơi nào ? / Có còn mùa xuân không em
/ Rừng ngàn lá gió / Từng đêm nhắc nhở thì thầm / Mai lỡ không về chắc
anh buồn biết mấy / Dáng nhỏ xuân xưa cũng nhớ đêm ngày
Quế Phượng (Tổng hợp)http://cafevannghe.wordpress.com/2010/02/26/nh%E1%BA%A1c-si-anh-vi%E1%BB%87t-thu-1939-1975/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét