Hầu hết bệnh nhân mắc
viêm túi mật cấp, triệu chứng thuyên giảm sau 1-4 ngày. Tuy nhiên khoảng
25-30% bệnh nhân phải phẫu thuật hoặc xuất hiện các biến chứng. Bệnh
nhân với viêm túi mật không do sỏi có tỷ lệ tử vong trong khoảng dưới
10%, lớn hơn nhiều so với khoảng 4% ở những bệnh nhân viêm túi mật do
sỏi. Nếu có hơi trong đường mật, tỷ lệ tử vong xấp xỉ 15%. Thủng túi mật
xảy ra ở khoảng 10-15% trường hợp.
Mặc dù là bệnh khá phổ biến song đến nay bệnh lý viêm túi mật vẫn chưa được cộng đồng chú ý đúng mức. Rất nhiều trường hợp vẫn nhập viện trong tình trạng đã biến chứng khá nặng. Đặc biệt những người có nguy cơ cao ít biết trước mình có khả năng mắc bệnh, đó là những người cao tuổi, phụ nữ, béo phì, giảm cân nhanh, do dùng thuốc điều trị... Viêm túi mật không do sỏi gây tử vong cao hơn do sỏi.
Nuôi cấy dịch mật cho dương tính với vi khuẩn khoảng 50-75% trường hợp viêm túi mật cho thấy sự phát triển của vi khuẩn có thể là kết quả của viêm túi mật hoặc là do các yếu tố gây bệnh khác. Yếu tố nguy cơ mà viêm túi mật phản ánh có thể có sỏi đường mật bao gồm: tuổi cao, giới nữ, béo phì, giảm cân nhanh, do dùng thuốc, phụ nữ mang thai.
Viêm túi mật không do sỏi có liên quan đến điều kiện kết hợp với tình trạng ứ mật bao gồm: suy nhược cơ thể, phẫu thuật lớn, tổn thương trầm trọng, nhiễm khuẩn... và những nguyên nhân khác như: nhiễm khuẩn Salmonella, đái tháo đường, nhiễm virut cự bào ở những bệnh nhân bị AIDS.
Các biến chứng hay gặp là viêm mủ và áp- xe đường mật; suy gan, suy thận.
Viêm túi mật do sỏi gặp nhiều hơn ở phụ nữ
Sỏi túi mật ở nữ cao hơn nam giới 2- 3 lần vì thế viêm túi mật do sỏi ở nữ cao hơn ở nam. Mức độ cao progesteron ở phụ nữ có thai có thể gây ra ứ trệ dịch mật, kết quả tỷ lệ bệnh túi mật cao hơn ở phụ nữ có thai. Viêm túi mật không do sỏi thường thấy nhiều hơn ở những nam giới cao tuổi. Phạm vi tác động của viêm túi mật thì tăng theo tuổi. Cơ chế giải thích bệnh sỏi mật tăng ở người già thì chưa rõ ràng. Có thể tỷ lệ tăng ở nam giới cao tuổi có liên quan với thay đổi tỷ lệ androgen/estrogen.
Tam chứng Charot là dấu hiệu điển hình của bệnh
Khi túi mật bị viêm, các biểu hiện điển hình thường thấy là:
Đau bụng: Thường đau vùng gan, đau bụng vùng hạ sườn phải xuyên ra sau lưng hay lên vai phải, cũng có khi đau vùng thượng vị nên dễ nhầm với cơn đau do ổ loét dạ dày - tá tràng. Trong lúc đau nếu người bệnh ăn hay uống đau sẽ tăng lên do đường mật bị kích thích.
Sốt xuất hiện sau các cơn đau vài giờ (6-12 giờ) do nhiễm khuẩn đường mật với các cơn sốt rét run và vã mồ hôi, sau đó nhiệt độ cơ thể trở lại bình thường hoặc hơi tăng.
Vàng da: có thể có ở những trường hợp viêm túi mật do sỏi.
Bệnh nhân cũng có thể có các dấu hiệu của rối loạn tiêu hoá như chán ăn, buồn nôn hoặc nôn. Ở những người già, triệu chứng đau và sốt có thể không rõ. Trong các đợt tắc mật có thể thấy người bệnh xuất hiện các dấu hiệu của suy thận như đái ít, nước tiểu sẫm màu như nước vối và ngứa. Khám bụng thấy gan to, thường to đều cả hai thùy. Túi mật to có thể thấy rất rõ, di động theo nhịp thở. Tắc mật lâu ngày hoặc sau các đợt viêm đường túi mật có thể viêm teo nhỏ lại, nên khi thăm khám không thấy túi mật to, lúc đó nghiệm pháp Murphy sẽ dương tính.
Cần thực hiện các xét nghiệm đặc hiệu gì để xác định bệnh?
Mặc
dù tiêu chuẩn xét nghiệm không chắc chắn ở tất cả những bệnh nhân viêm
túi mật, nhưng cũng có ích trong chẩn đoán. Số lương bạch cầu tăng, chủ
yếu tăng bạch cầu đa nhân trung tính. Nếu có tắc mật bilirubin máu tăng
cao, tăng loại bilirubin trực tiếp. Men phosphatase kiềm tăng. Amylase
máu, men gan có thể tăng. Cấy máu có thể dương tính khoảng 50% các
trường hợp. Cấy dịch mật có thể dương tính gần như tất cả bệnh nhân.
Trong các đợt viêm đường mật nặng có thể có các dấu hiệu của suy thận
(urê máu, creatinin máu cao...). Rối loạn chức năng gan về đông máu (tỷ
lệ prothrombin giảm, kéo dài thời gian đông máu. Ở giai đoạn nặng có thể
thấy các dấu hiệu đông máu rải rác trong lòng mạch...).
Trên hình ảnh X quang: Có thể thấy hình ảnh gan to, bóng túi mật to, có thể thấy hơi trong đường mật.
Siêu âm có thể thấy gan to, túi mật to, thành túi mật dày, có thể có sỏi trong và ngoài gan, có thể có giun kèm theo. Nếu các kết quả không rõ ràng cần chụp đường mật, CT Scanner đường mật hoặc nội soi đường mật.
Nhiều trường hợp cho kết quả điều trị khó khăn
Dùng kháng sinh phổ tác dụng rộng với các chủng đường ruột cả ái khí lẫn yếm khí, kháng sinh có khả năng ngấm tốt vào đường mật và có sự kết hợp giữa các nhóm: Thông thường dùng nhóm cephalosporin thế hệ thứ 3 (cefobis) với nhóm amyloglycosis (gentamycine) và metronidazole. Nếu có kết quả kháng sinh đồ thì dùng theo kháng sinh đồ là tốt nhất. Bên cạnh đó, người bệnh cần được điều chỉnh rối loạn nước và điện giải, đặc biệt là những rối loạn chức năng gan và thận.
Trong nhiều trường hợp phải giải phóng đường mật tạm thời như chọc mật qua da hay mở cơ thắt Oddi qua nội soi. Nếu bệnh có biến chứng nặng phải phẫu thuật mở đường mật, lấy sỏi, rửa đường mật và đặt ống dẫn lưu Kehr.
Mặc dù đã được cải thiện với dùng kháng sinh sớm và giải phóng đường mật nhưng một số yếu tố khiến tiên lượng bệnh nhân khó khăn hơn như: tuổi già, phụ nữ, suy gan suy thận cấp, trước đó đã bị xơ gan, tắc nghẽn đường mật ác tính.
Mặc dù là bệnh khá phổ biến song đến nay bệnh lý viêm túi mật vẫn chưa được cộng đồng chú ý đúng mức. Rất nhiều trường hợp vẫn nhập viện trong tình trạng đã biến chứng khá nặng. Đặc biệt những người có nguy cơ cao ít biết trước mình có khả năng mắc bệnh, đó là những người cao tuổi, phụ nữ, béo phì, giảm cân nhanh, do dùng thuốc điều trị... Viêm túi mật không do sỏi gây tử vong cao hơn do sỏi.
Nuôi cấy dịch mật cho dương tính với vi khuẩn khoảng 50-75% trường hợp viêm túi mật cho thấy sự phát triển của vi khuẩn có thể là kết quả của viêm túi mật hoặc là do các yếu tố gây bệnh khác. Yếu tố nguy cơ mà viêm túi mật phản ánh có thể có sỏi đường mật bao gồm: tuổi cao, giới nữ, béo phì, giảm cân nhanh, do dùng thuốc, phụ nữ mang thai.
Viêm túi mật không do sỏi có liên quan đến điều kiện kết hợp với tình trạng ứ mật bao gồm: suy nhược cơ thể, phẫu thuật lớn, tổn thương trầm trọng, nhiễm khuẩn... và những nguyên nhân khác như: nhiễm khuẩn Salmonella, đái tháo đường, nhiễm virut cự bào ở những bệnh nhân bị AIDS.
Các biến chứng hay gặp là viêm mủ và áp- xe đường mật; suy gan, suy thận.
Hình ảnh viêm túi mật trong cơ thể.
|
Sỏi túi mật ở nữ cao hơn nam giới 2- 3 lần vì thế viêm túi mật do sỏi ở nữ cao hơn ở nam. Mức độ cao progesteron ở phụ nữ có thai có thể gây ra ứ trệ dịch mật, kết quả tỷ lệ bệnh túi mật cao hơn ở phụ nữ có thai. Viêm túi mật không do sỏi thường thấy nhiều hơn ở những nam giới cao tuổi. Phạm vi tác động của viêm túi mật thì tăng theo tuổi. Cơ chế giải thích bệnh sỏi mật tăng ở người già thì chưa rõ ràng. Có thể tỷ lệ tăng ở nam giới cao tuổi có liên quan với thay đổi tỷ lệ androgen/estrogen.
Tam chứng Charot là dấu hiệu điển hình của bệnh
Khi túi mật bị viêm, các biểu hiện điển hình thường thấy là:
Đau bụng: Thường đau vùng gan, đau bụng vùng hạ sườn phải xuyên ra sau lưng hay lên vai phải, cũng có khi đau vùng thượng vị nên dễ nhầm với cơn đau do ổ loét dạ dày - tá tràng. Trong lúc đau nếu người bệnh ăn hay uống đau sẽ tăng lên do đường mật bị kích thích.
Sốt xuất hiện sau các cơn đau vài giờ (6-12 giờ) do nhiễm khuẩn đường mật với các cơn sốt rét run và vã mồ hôi, sau đó nhiệt độ cơ thể trở lại bình thường hoặc hơi tăng.
Vàng da: có thể có ở những trường hợp viêm túi mật do sỏi.
Bệnh nhân cũng có thể có các dấu hiệu của rối loạn tiêu hoá như chán ăn, buồn nôn hoặc nôn. Ở những người già, triệu chứng đau và sốt có thể không rõ. Trong các đợt tắc mật có thể thấy người bệnh xuất hiện các dấu hiệu của suy thận như đái ít, nước tiểu sẫm màu như nước vối và ngứa. Khám bụng thấy gan to, thường to đều cả hai thùy. Túi mật to có thể thấy rất rõ, di động theo nhịp thở. Tắc mật lâu ngày hoặc sau các đợt viêm đường túi mật có thể viêm teo nhỏ lại, nên khi thăm khám không thấy túi mật to, lúc đó nghiệm pháp Murphy sẽ dương tính.
Cần thực hiện các xét nghiệm đặc hiệu gì để xác định bệnh?
Túi mật nằm ở mặt dưới gan, vùng bụng trên bên phải, dưới bờ sườn. Túi mật có chức năng chứa dịch mật do gan bài tiết. Khi ăn, túi mật co lại, tống mật vào ruột để tiêu hóa thức ăn. Viêm túi mật xảy ra do tắc nghẽn đường dẫn mật, chủ yếu do sỏi mật (90% các trường hợp liên quan đến sỏi của đường mật và 10% khác không có sỏi đường mật). |
Siêu âm có thể thấy gan to, túi mật to, thành túi mật dày, có thể có sỏi trong và ngoài gan, có thể có giun kèm theo. Nếu các kết quả không rõ ràng cần chụp đường mật, CT Scanner đường mật hoặc nội soi đường mật.
Nhiều trường hợp cho kết quả điều trị khó khăn
Dùng kháng sinh phổ tác dụng rộng với các chủng đường ruột cả ái khí lẫn yếm khí, kháng sinh có khả năng ngấm tốt vào đường mật và có sự kết hợp giữa các nhóm: Thông thường dùng nhóm cephalosporin thế hệ thứ 3 (cefobis) với nhóm amyloglycosis (gentamycine) và metronidazole. Nếu có kết quả kháng sinh đồ thì dùng theo kháng sinh đồ là tốt nhất. Bên cạnh đó, người bệnh cần được điều chỉnh rối loạn nước và điện giải, đặc biệt là những rối loạn chức năng gan và thận.
Trong nhiều trường hợp phải giải phóng đường mật tạm thời như chọc mật qua da hay mở cơ thắt Oddi qua nội soi. Nếu bệnh có biến chứng nặng phải phẫu thuật mở đường mật, lấy sỏi, rửa đường mật và đặt ống dẫn lưu Kehr.
Mặc dù đã được cải thiện với dùng kháng sinh sớm và giải phóng đường mật nhưng một số yếu tố khiến tiên lượng bệnh nhân khó khăn hơn như: tuổi già, phụ nữ, suy gan suy thận cấp, trước đó đã bị xơ gan, tắc nghẽn đường mật ác tính.
ThS. Nguyễn Trung Dũng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét