Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày trước, sử dụng 1750 người phục vụ,
tốn kém 98 triệu hoa viên thời đó tương đương 374 ngàn lượng vàng ròng,
gồm 400 thực khách và đại tiệc kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu từ giao
thừa (12 giờ đêm) Tết nguyên đán Canh Tý.
Thực Ðơn
Gồm tất cả 140 món. Theo chiếu chỉ của Tây Thái Hậu, mỗi tỉnh tuyển
lựa mười đầu bếp tài giỏi. Các đầu bếp này họp nhau ở thủ đô từ ngày rằm
tháng hai năm Kỷ Hợi (1873) nghĩa là 11 tháng 6 ngày trước đại tiệc để
cùng nhau soạn thảo các món ăn ngon, lạ.
Sau gần hai tháng thảo luận, một thực đơn gồm 140 món được hình
thành, trong số này có 7 món thật bổ dưỡng, thật đặc biệt, thật lạ lùng,
mỗi ngày chỉ thiết đãi một món, thực khách ăn vào chẳng những không
thấy đầy bụng mà sự mệt mỏi, bực bội như tan biến đi, tinh thần sảng
khoái gấp bội.
Bảy món ấy là:
1.Sâm Thử
Sâm thử là chuột sâm, chuột nuôi bằng sâm.
Trong quyển Món Lạ Miền Nam, tác giả Vũ Bằng tường thuật món sâm thử như sau:
“Chuột mới đẻ đem nuôi trong lồng kính cho ăn toàn sâm thượng hảo
hạng và uống nước suối, đến khi đẻ ra con thì lấy những con đó nuôi
riêng cũng theo cách thức đó để cho sinh ra một lớp chuột mới, nhưng lớp
chuột mới nầy vẫn chưa dùng được. Cứ nuôi như thế đến đời thứ ba, chuột
mới thực là “Thập Toàn Ðại Bổ”, người ta mới lấy những con chuột bao tử
của thế hệ mới nầy ra ăn và ăn như thế tức là ăn tất cả cái tinh hoa,
bén nhậy, khôn ngoan của giống chuột cộng với tất cả tính chất cải lão
hoàn đồng, cải tử hoàn sinh, tráng dương bổ thận của cây sâm vốn được y
lý Ðông phương đặt lên hàng dầu thần dược từ cổ chí kim trong trời đất.
Nguyên Ðại sứ Tây Ban Nha thuật lại rằng đến món ăn đặc biệt ấy thì
có một ông quan đứng lên giới thiệu trước rồi quân hầu bưng lên bàn tiệc
cho mỗi quan khách một cái đĩa con bằng ngọc trong đó có một con chuột
bao tử chưa mở mắt, đỏ hon hỏn hãy còn cựa quậy – nghĩa là một con chuột
bao tử sống. Bao nhiêu quan khách thấy thế chết lặng đi bởi vì nếu phải
theo giao tế mà an cái món này thì… nhất định phải… trả lại hết những
món gì đã ăn trước đó.
Mọi người nhìn nhau. Tây Thái Hậu cầm nĩa xúc con chuột bao tử ăn để
cho mọi người bắt chước ăn theo. Con chuột kêu chi chí, người tinh mắt
thấy một tia máu vọt ra… Hoàng đế Trung Hoa thong thả vừa nhai vừa suy
nghĩ như thể muốn kéo dài cái thú ăn tuyệt diệu ra để cho cái thú ấy
thấm nhuần trí óc và cơ thể. Và Ngài nói:
- Mời chư vị.
Nhưng không một vị nào đụng đũa, cứ nguồi trơ ra mà nhìn. Tây Thái Hậu bèn cười mà nói đùa:
- Tôi tiếc không thấm nhuần được cái văn minh Âu Mỹ của các ngài,
nhưng riêng về cái ăn thì tôi thấy quả các ngài chậm tiến, không biết
cái gì là ngon, là bổ. Về món đó, các ngài có lẽ còn phải học nhiều của
người Á Ðông.
Không một ông nào trả lời vì có lẽ các ông đại diện ấy đến lúc ấy đều
bán tín bán nghi không biết ăn chuột bao tử như thế là văn minh hay man
dã. Tuy nhiên người ta có thể chắc chắn là chưa có một nước nào trên
thế giới lại có một món ăn tinh vi, quí báu, cầu kỳ đến thế bao giờ.
Chính cái ông Ðại sứ Tây Ban Nha nhắm mắt lại thử ăn nhưng ông thú
thực rằng vừa cho vào miệng cắn một cái thấy chuột con kêu chi chí, ông
ta vội vàng chạy ra ngoài, lè ra, và một tháng sau còn sợ.
Sau này, đem câu chuyện đó nói với mấy vị đông y sĩ, ông ta biết rằng
người Âu Mỹ không biết ăn cái món ấy quả là “Chậm tiến” và mấy ông già
con cho biết thêm rằng chuột thường nuôi bằng sâm đã bổ hết sức rồi,
nhưng nếu tìm được giống chuột chù mà nuôi bằng sâm theo cách thức nói
trên thì còn bổ gấp trăm lần nữa…” (Vũ Bằng)
2.Não Hầu
Não hầu là óc khỉ.
Vùng Thiên Hoa Sơn thuộc tỉnh Sơn Ðông có một rừng cây lê gọi là ngọc
căn lê, trái lê trị được các bệnh nhiệt uất, can thận và ho khinh niên.
Rừng lê có rất nhiều khỉ, chúng ăn hết cả trái. Nhờ ăn ngọc căn lê nên
thịt khỉ nơi đây rất thơm ngon, lại chữa được bệnh loạn óc, tê liệt và
bán thân bất toại. Về dược tính, óc khỉ quí hơn thịt gấp bội. Dân chúng
trong vùng tìm đủ cách bảo vệ rừng lê nhưng không có kết quả, bởi giống
khỉ nơi đây đầu có ba xoáy, tinh khôn, né tránh thợ săn và bẫy rập một
cách tài tình.
Tây Thái Hậu xuống chiếu phải bắt cho được 200 con khỉ trẻ, chưa thay
lông lần nào, mỗi con được trọng thưởng 110 lượng vàng ròng. Con số này
quá nhiều, thợ săn không đáp ứng đủ nên về sau Từ Hi phải giảm xuống
còn 80.
Năm thực khách dùng một con. Khỉ mang về được nuôi bằng thức ăn tinh
khiết, bổ dưỡng, ngoài ra còn được tắm gội sạch sẽ. Lại cho đóng 80 cái
hộp tròn giống như cái trống nhỏ mở ra khép vào được, một mặt trống có
khoét lỗ tròn vừa đủ diện tích cho cái đầu con khỉ ló lên kèm theo một
cái gông làm con khỉ không thể cục cựa được. Trước khi bắt dầu món ăn
này, bầy khỉ được tám rửa lần chót, xịt nước hoa thơm ngát và cho uống
một loại thuốc để tất cả năng lực, tinh túy của con vật tập trung lên
não bộ, óc khỉ vì lẽ ấy sẽ gia tăng chất bổ dưỡng bội phần.
Muốn cho các quan khách Tây phương bớt thấy sự dã man, ăn uống được
mạnh miệng đồng thời làm cho món ăn mang ít nhiều ý nghĩa lịch sử, Thanh
triều cho các chú khỉ vận triều phục, đội mão, vẽ mặt, mang râu, giống
như một đại quan của triều đình, trên cổ đeo một tấm bản nhỏ ghi rõ tên
họ, tuổi tác cùng quan chức thuở sinh tiền. Những con khỉ đó tượng trưng
cho những nịnh thần, gian tặc… khả ố nhất, gian ác nhất, bị dân chúng
oán ghét tận xương tủy như Tần Cối, Bí Trọng, Vưu Hồn, Bàng Hồng, Trương
Bang Xương, Mao Diên Thọ… phải chịu chết để đền tội với đất nước, với
nhân dân.
Khi tiếng khánh ngọc từ tay Tây Thái Hậu trổi lên để báo hiệu đến món
não hầu thì nội thị dọn ra mỗi bàn một cái lồng chứa khỉ cho năm thực
khách. Kế tiếp tên nội thị một tay gỡ mão một tay dùng búa bằng ngà nhỏ
giáng cuống đầu khỉ. Ðộng tác này đã được tập luyện thuần thục từ trước
để chỉ cần một búa duy nhất là đủ đưa con khỉ sang bên kia thế giới.
Cùng lúc ấy nhạc đệm trổi lên và tên nội thị sẽ ngâm nga một câu theo
tiếng nhạc, đại ý như: “Mao Diên Thọ đã thụ hình” hay “Tần Cối đã đền
xong tội phản thần…”
Ðoạn tên nội thị lập tức dùng một tấm lụa bạch đậy kín toàn bộ cái
đầu con khỉ, chỉ chừa một lỗ thật nhỏ vừa đủ đưa cái muỗng bạc vào múc
khối óc khỉ. Não hầu được xối lên bằng nước sâm nóng hổi cho tái đi, bớt
đỏ. Lúc thực khách vừa múc óc khỉ ra ngoài, nội thị dùng nĩa bạc gạt bỏ
phần da đầu và những mảnh sọ bể để khách dễ dàng hành động.
3. Tượng Tinh
Tượng tinh là tinh khí của voi.
Trước hết chọn những tổ yến thật to và tốt lấy được từ các hải đảo
ngoài khơi biển Nam hải, tẩy rửa cẩn thận rồi nấu trong nước thang nhân
sâm và đường Chủng Càu Chỉ của Ðại Hàn. Lại hòa chung với nước lê Vân
Nam – Tuyết Hồng Lê – và bột Kiết Châu Phấn, nấu khô lại rồi nặn thành
hình những con voi, đoạn bỏ vào lò nung cho thật chín và chắc.
Tượng tinh thì các người nài voi đã lấy sẵn. Khi con voi làm bằng tổ
yến được mang từ lò ra, đầu bếp sẽ khoét lưng voi một lỗ trống vừa đủ
nhét vô một cái bóng cá voi đã ngâm thuốc bắc phơi khô. Tượng tinh được
cho vào cái bóng cá và con voi được đem đi chung cách thủy. Lúc thưởng
thức món này, thực khách dùng một chiếc kim vàng thọc vô bụng voi để
chất nước nhờn chẩy vào chén bạc rồi uống.
Sâm thử và tượng tinh bồi bổ cho lục phủ ngũ tạng, tỳ vị thêm mạnh mẽ lại trị dứt các chứng nhức mỏi và làm mắt sáng thêm ra.
4.Trư Vương
Trư vương là một giống heo quí báu.
Giống heo này thịt thơm ngon và rất bổ dưỡng, ở vùng Phúc Châu nhờ ăn
một thứ củ giống như củ Hoàng Tinh mọc quanh khu vực đồi núi Châu Tịch
Xương tiếp cận. Củ này tên gọi Tích Vân Lang, chỉ sống tại địa phương,
nếu đem trồng nơi khác, cẩn thận chăm sóc cách nào chúng cũng chết.
Thanh triều mang về 60 con heo, 20 con đực và 40 con cái, cho ăn toàn
thức ăn đại bổ, uống toàn nước sâm. Heo mặc tình giao hợp rồi sinh đẻ,
lớp heo mới ngày càng tinh khiết, tinh túy của sâm nhung. Heo đem đãi
tiệc tuổi chưa đầy hai tháng, gọi là heo sữa.
Năm ngày trước đại tiệc, đầu bếp chọn 100 chú heo sữa thật béo tốt,
không chọc tiết cũng không nhúng nước sôi để cạo lông mà đập chết rồi
thui cho cháy lông. Bỏ hết ruột gan tỳ phế thận, thịt heo được cắt thành
từng lát mỏng ướp với các dược phẩm trân quí trong 3 ngày liền trước
khi chưng cách thủy. Lúc đem ra thết đãi thịt heo thơm ngon vô cùng.
Xương lại mềm rục. Nhiều thực khách ưa thích món heo này vô cùng, họ
nhắc nhở mãi về sau này trong các hồi ký, ký sự.
5.Phương Chi Thảo
Phương Chi thảo là cỏ Phương Chi.
Tương truyền Hoàng Ðế Khang Hy nhà Thanh khi còn sinh tiền rất háo
sắc nhưng có tài y thuật cao cường. Vì vậy nên dù có hàng trăm phi tần
vua vẫn khỏe mạnh do tự bồi dưỡng cường lực bằng dược chất. Nhưng lúc
tuổi già vua mắc phải chứng bệnh khan háo trong ngũ tạng mà tự mình
không chữa được, bao nhiêu nhự y đại tài của triều đình cũng bó tay, vua
phải bố cáo tìm danh y, thần dược trong dân gian.
Ngày nọ, có một dị nhân xin yết kiến rồi móc trong người ra một bó cỏ
rất lạ, rễ xanh, lá dài như lá hẹ nhưng màu đỏ tía, ngọn lại trắng. Vua
biết là cỏ quí nên hỏi, dị nhân trả lời đó là cỏ Phương Chi mọc trên
đỉnh Thái Hàng Sơn hướng về mặt trời, đặc biệt là cỏ này chỉ mọc trên
một tảng đá duy nhất, cao và chiênh vênh. Chỉ vào năm nhuận cỏ mới mọc
và mọc một lần duy nhất nhân dịp Trung Thu, sống trong khoảng 30 đến 45
ngày, lúc gặp ngọn gió bấc đầu mùa thì lập tức bị khô héo.
Việc hái cỏ cũng rất công phu. Dắt theo một con ngựa toàn bạch lên
đỉnh núi cao trước một ngày, đếi khi mặt trời mới mọc đem ngựa tới phiến
đá cho an cỏ. Ngựa vừa ăn cỏ xong phải tức thì chém rụng đầu ngựa rồi
mổ bụng lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô.
Cỏ Phương Chi khi ăn vào làm cơ thể mát mẻ đồng thời trị tuyệt các
bệnh trầm kha hoặc hiểm nghèo. Trong đại tiệc do Từ Hi Thái Hậu khoản
đãi, Phương Chi Thảo nấu chung với Long Tu (râu rồng). Thực khách ăn
xong cảm thấy tinh thần vô cùng sảng khoái, cả tháng sau không khát nước
cũng không mệt.
6. Sơn Dương Trùng
Sơn dương là dê núi, trùng là con dòi.
Tây Thái Hậu xuống chiếu đòi các thợ săn chuyên nghiệp tỉnh Hồ Bắc vào rừng mang về cho dược một cặp sơn dương thật lớn.
Sau gần một tháng băng núi trèo đèo ở Thiểm Tây, đoàn thợ săn bắt
được ba cặp dê rừng, trong số ấy ba con cái đều đang mang thai, được Tây
Thái Hậu thưởng cho 50 lạng vàng mỗi con.
Dê rừng sau đó được thả trong một khu vườn rộng đầy cỏ non xanh tốt.
Cỏ lạ nuôi dê có dược chất bổ dưỡng gan thận được vận tải đến mỗi ngày
từ Vân Nam và Quảng Tây. Cỏ nầy tên la “đông trùng hạ thảo”, bởi mùa hạ
cỏ mịn như nhung còn sang mùa đông thì trong cỏ sinh ra một loại sâu ăn
rất bổ. Bầy dê núi ăn cỏ quí có dược tính cùng với cỏ non, lá cây thuốc…
nên sinh con khỏe mạnh và to lớn khác thường.
Ðầu bếp làm thịt 14 con dê núi tuổi chưa quá hai tháng, cạo lông,
loại tim gan phèo phổi rồi cho mỗi con vào một thùng gỗ ngâm với rượu
quí và nước gừng trong một ngày. Ngày thứ hai mang những chú bé sơn
dương ra rồi ngâm chúng trong sữa tươi và nước sâm nhung. Ngày thứ ba
dùng dùi vàng xuyên thủng qua gương sen và cuống hoa quỳ trắng (Phan
bạch quỳ – hoa sen trắng của Ðại Hàn thường nở vào mùa đông) để cắm hoa
vào mình sơn dương. Tiếp tục ngâm nhu vậy đến ngày thứ 10 thì tự nhiên
trong các đóa hoa tự nhiên xuất hiện lúc nhúc những con dòi trắng nõn.
Ðầu bếp lấy dòi ấy chế biến thành món sơn dương trùng, trị các bệnh bán thân bất toại, tê liệt và lao phổi đại tài.
7.Trứng Công
Thế gian có câu “nem công, chả phụng” để chỉ hai món ăn thuộc hàng
trân vị. Nem công dù hiếm quí những vẫn còn tương đối dễ kiếm, dễ làm so
với trứng công, bởi thứ nhất loài công làm tổ ở những nơi xa xôi hẻo
lánh, trên cành cao hay vách đá cheo leo, khó tìm ra được. Thứ hai là dù
có tìm ra được chỗ công đang ấp trứng thì cũng không dễ gì đến gần ổ vì
công rất hung dữ, chống cự kịch liệt và cuối cùng nếu thấy không bảo vệ
được ổ trứng thì chúng đập bể nát hết chứ không để lọt vào tay ai.
Tây Thái Hậu sai người đi lấy trứng công nhưng chẳng ai làm được, bà
rất phiền muộn. May thay có một vị tướng quân trẻ tuổi xin vào ra mắt và
tâu rằng ông có người anh bà con ở Tứ Xuyên nuôi được bầy khỉ 100 con,
thông minh lanh lợi, huấn luyện thuần thục, nghe được tiếng người,
chuyên đi hái trà cùng với các dược thảo hiếm hoi, quí giá ở những vùng
rừng núi xa xôi và hiểm trở. Ông tin rằng nếu tập luyện cho lũ khỉ chúng
có thể lấy được trứng công.
Tây Thái Hậu nghe xong trong lòng hoan hỉ, truyền đem 1000 lạng vàng
ròng cùng với 100 tấm gấm vóc Bạch cầu thượng hạng ban tặng cho viên
tướng nọ làm lộ phí đi Tứ Xuyên lo việc kiếm trứng công, nếu xong việc
sẽ thưởng thêm mỗi trứng 10 lạng vàng nữa.
Viên tướng nọ lãnh mệnh ra đi, cùng người anh bà con huấn luyện đoàn
khỉ. Họ thành công, lấy được 500 trứng công, nhưng thiệt hại khá lớn,
bầy khỉ bị công mổ chết hết một phần ba.
Ðại tiệc
Cho đến ngày 23 tháng chạp 1873 (kỷ hợi) tất cả quan khách đều nhận
được thiệp mời. Trong số 400 thực khách, 212 người thuộc các phái đoàn
ngoại giao và giới chức quân sự của liên minh các cường quốc Tây phương,
các vị đó là Ðại sứ, Thủy sư Ðô Ðốc hải quân, Tướng lãnh bộ binh… 188
vị còn lại được chọn lựa torng hàng khai quốc công thần của Thanh triều.
Tối giao thừa cuối năm Kỷ Hợi và đầu năm Canh Tý, tất cả thực khách
tề tựu tại Duy Anh Cung trong lúc Từ Hi Thái Hậu dự lễ Trừ Tịch ở Tôn
Long Miếu. Duy An Cung đã được trang hoàng từ cả tháng trước, nền trải
thảm long ban rực rỡ, tứ hướng cờ xí rợp trời. Bàn tiệc được trưng bày
theo bát quái trận đồ, có ngự lâm quân mang binh khí, vận triều phục uy
nghi lẫm liệt đứng hầu. Mặt bàn tiệc trải thảm ngũ sắc bằng gấm bày
muỗng nĩa, đũa chén sang trọng bằng pha lê, vàng bạc, ngọc ngà.
Sau ba hồi chiêng trống long phụng vang rền, tiếp theo là tràng ngọc
khánh lảnh lót báo hiệu Tây thái Hậu xuất cung, quan khách đồng loạt
đứng dậy hướng về phía long kiệu đang tiến tới. Long kiệu do tám ngự lâm
quân khiêng đến đặt ngay ngắn giữa hai hàng quan khách. Một tiếng hô
to, quan quân cúi mọp đầu xuống, quan khách ngoại quốc nghiêng mình
chào. Thái Thú Lý Hồng Chương bước tới vén nhẹ tấm sáo che long kiệu. Từ
Hi Thái Hậu khoan thai bước ra khỏi kiệu và gật đầu chào quan khách… và
mời khách vào tiệc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét