Bất hiếu Mùa nắng nóng người ta dễ tìm tới cái món gọi là "bất hiếu". Hỗng lẽ do nóng quá người ta dễ nổi quạu, nổi điên, tới mức cha mình mà cũng "vũ tử" (biến thể từ "vũ phu")? Tội bất hiếu đó đáng để lãnh "cầu đầu trảm". Còn ở đây, "bất hiếu" đã lắm. Giữa cơn nắng nóng, cháy khát cả cổ mà có một ly đá chanh thì còn gì bằng! Mà "đá chanh" lại là nói lái của "đánh cha". Đánh cha đích thị là bất hiếu rồi còn gì! Bún Xiêm Lo Hôm rồi thầy Đỗ Hiền Triết chuyển cho Kiến Bình “loạn” thắc mắc của Người Ngây Thơ về món bún Xiêm Lo mà thầy Ngô Nguyên Trái của mình mở quán kinh doanh sau một lần được học trò ở Mộc Hóa dẫn đi “cháp” món này. Mới nghe cái tên bún Xiêm Lo thì người từng ăn sẽ nghe thoang thoảng đâu đây mùi bún rất đặc trưng của nó, còn người chưa ăn thì nghĩ ngay đây là một món ẩm thực Khmer. Nhiều người cho đây là một món hợp tấu Việt – Khmer. “Xác” là canh rau tập tàng Nam bộ. Còn “hồn” là bún nước lèo. Thật ra, đây là một loại canh ăn với bún. Nó giống như canh cà chua với thịt nạc heo băm vo viên chan vào bún gọi là bún mọc. Canh Xiêm Lo ăn với bún thành ra bún Xiêm Lo. Trong một bài viết về bún Xiêm Lo trên báo Thanh Niên có nói: “Nhiều trưởng lão ở Sóc Trăng cho rằng Xiêm Lo là tác phẩm của cuộc phối ngẫu giữa anh chồng người Việt và vợ Khmer kén ăn. Bởi ban đầu, nguyên liệu nấu canh này là cá đồng (cá lóc hoặc lươn), tép bạc. Mắm nêm canh là bù-hốc, được làm bằng cá tạp loại nhỏ: sặc, rô, cửng, tốp…Rau nấu canh là bầu non hoặc rau ngổ. Nghe qua, chắc không ít bạn nghi ngại vì canh này "ô hợp" quá. Song chẳng phải vậy. Món này có mùi thơm độc đáo lắm. Đó là kết quả của sự cộng hưởng, thăng hoa của củ sả đập giập, thính gạo nếp và mắm bù-hốc đã khử tanh bằng dầu (mỡ) gia thêm tỏi, ớt. Và vị ngọt cũng thế, đó là sự giao hưởng giữa chất đạm cá đồng, tép tươi với đạm của mắm.” Nhưng đó là Xiêm Lo của các chuyên gia ẩm thực. Còn với Kiến Bình “loạn”, khác à nghen. Cái tên Xiêm Lo cho thấy một sự tự tin vào chất lượng, đồng thời đe dọa, hăm he đối thủ cạnh tranh. Nó hàm ý, món bún này ngon tới mức mà người Xiêm (tức láng giềng Thái Lan) phải lo lắng. Người Thái vốn nổi tiếng với món canh lẩu Thái vừa chua té… nước miếng, vừa cay chảy nước mắt, nước mũi. Đối thủ của nó chính là bún Xiêm Lo. Tuy nhiên, đó là lý lẽ của những ai nặng nợ với bà con Khmer, từng tơ tưởng một tấm Xà-rông quấn trên mình một nàng Khmer họ Thạch. Còn với những ai thường xuyên lai vãng tới Pattaya mải mê ngắm nhìn mấy nường Kathoey (tên gọi của giới tính thứ ba ở Thailand) chuyển đổi giới tính thì ắt hiểu theo một hướng ngược lại 180 độ. Bún Xiêm Lo có nghĩa là bún dở ẹt tới mức người Xiêm phải lo rằng nó sẽ bị ế nhề ế nhệ. Chẳng biết ai đúng ai sai, nhưng khi sực nhớ tới chủ quán bún Xiêm Lo Thạch Xà-rông là ngài Ngô Vàng, ta không khỏi nơm nớp lo sợ. Bậc thầy “ma-kết-tinh” (ma kết hợp với tinh thành quỷ) này lừng danh là người đụng cái gì ế cái nấy. Chán món bắp gia truyền, ngài chuyển sang bán cà chua – thành cà chua ế, bán gừng – thành gừng dội khẩu, nay vừa mới quấn xà-rông mở quán bún Xiêm Lo được mấy bữa lại rắp ranh dòm ngó tới món thuốc đông y Đả Hoài Hương Đặc Dược. Hèn gì mà lâu lâu ghé qua lại thấy ngài Ngô Vàng ngồi giữa đám ruộng ngô mà cạp bắp! Cá mú Thầy Đỗ Hiền triết vừa chuyển tới Kiến MZ thắc mắc của Người Thắc Mắc về từ "cá mú". 1. Cá mú là tên một loài cá nước mặn, sống ở các vùng biển nhiệt đới và á nhiệt đới, tập trung nhiều ở Thái Bình Dương. Họ cá mú còn có tên khác là họ cá song (tên khoa học Serranidae). Việt Nam có tới 30 loài cá mú. Cá mú thuộc nhóm cá dữ, ăn mồi động vật sống. Cá mú khổng lồ có thể nặng tới 20kg hoặc hơn. (Xin click vào đây để chiêm ngưỡng dung nhan loài cá mú đỏ). Cá mú luôn là loại cá được ưa chuộng hàng đầu trong các loài cá biển vì thịt trắng, ngọt, dai, thơm ngon. Ở nhà hàng, người ta chuộng loại cá mú trên dưới 1kg cho vừa ăn. (Xin click vào đây để thưởng thức mòn cá mú hấp). 2. Có lẽ do quá được "ngưỡng mộ" bởi cái tính "hẩu xực" mà từ cá mú còn được dùng làm danh từ chung chỉ các loại cá. Như người ta nói: "thịt thà cá mú". 3. Những người đi biển, nghề sông nước, kiêng cữ gọi chính tên của một vài loài cá. Như cá voi, cá ông được gọi là ngài hay ông. Như vậy, "cá mú" có thể là cách gọi kị húy của "cá mập", vì "mú" còn có nghĩa là mập, to con. 4. Nếu từ "cá mú" được phát ra từ cửa miệng của những chuyên gia nói lái như bạn Lê Ngọc Điền nhà mình, thì bạn phải cẩn trọng. Bởi có thể nó không phải là loài động vật dưới nước mà lại là một con "chim cái". "Cá mú" được đọc lái từ "cú má" = "cú mẹ" => "chim cái". 5. Cũng kiểu nói lái, "cá mú" là kết quả của cách nói vừa lái, vừa lẹo (miệng) của "má cú" = "má cứu", để diễn tả một chuyện vô phương cứu chữa, chỉ thua 'trời cứu" thôi. Thí dụ: "Cá mú mày rồi đó con ơi!" có thể hiểu là "Má cứu mày rồi đó con ơi!". 6. Khi nghe dân cá độ bóng đá nói với nhau, từ "cá mú" có thể có nghĩa là "bắt cá đội MU". (MU: Manchester United). 7. Bọn tội phạm có thể dùng từ lóng "cá mú" để báo là "không có công an". "CA", viết tắt của "công an", thường bị gọi là "cá". "Mú" còn có nghĩa là "không", "hết sạch". 8. Mặc dù "mú" còn có nghĩa là mập, nhưng "gái mú" không hề có nghĩa là "gái mập". Từ lóng (slang) "gái mú" này được dùng để chỉ cái vụ "gái trai" của dân ăn chơi. Nó cũng đồng nghĩa với "gái gú". 9. ... Hình như Kiến MZ hơi bị quởn đó nghen! Các thầy Ngồi đọc đi đọc lại các trang viết trên Web THKT sao mà thắm đậm tình nghĩa thầy trò quá chừng. Nhưng tôi bỗng giựt mình, run rẩy khi phát hiện một "chi tiết chết người". Đó là khi mọi người dùng cách xưng hô "các thầy" coi rất trang trọng, tôn kính nhưng lại quên đi mất tiêu rằng "các thầy" còn là cách nói lái của "cầy thác", mà "cầy thác" có nghĩa là "chó chết". Vì lẽ đó, từ nay xin mọi người hãy dùng cách xưng hô đầy đủ là "các thầy cô" chớ đừng dùng "các thầy" nữa nhé. (NGUYỄN CÔNG PHONG bình "loạn"). Chợ búa Cái Người Thắc Mắc lại mới nhờ thầy Đỗ Hiền triết chuyển tới Kiến MZ thắc mắc về từ "chợ búa". 1. Cứ suy diễn theo cách gọi như chợ cá, chợ thịt,... thì "chợ búa" đơn giản là nơi chuyên bán... búa rồi chứ gì. Tới đây, bạn có thể chạm mặt một khách hàng thường xuyên là Chú Cuội. Chàng ta liên tục mua búa cho bén về chặt mớ cành đa đem bán lấy tiền mua thẻ cào gọi điện "tám" với chị Hằng Nga. 2. Nhưng thông dụng nhất là "chợ búa" được dùng để chỉ công việc buôn bán nói chung ở chợ. "Đi chợ búa kiếm chút tiền độ nhật." Khi nói tới những người sống ở chợ, buôn bán ở chợ, người ta chỉ gọi là "dân chợ"; còn nếu thêm từ "búa" thành "dân chợ búa" thì lại mang nghĩa xấu; kêu lạng quạng có thể bị chém bằng búa! Còn vì sao lại gọi là "chợ búa", thì theo tài liệu gia truyền khai quật được dưới những tảng đá Núi Đất, hồi xưa, người bán hàng ở chợ không "chém" người mua hàng bằng dao (đặc biệt là dao cạo) như hiện nay, mà thường dùng búa. Vì thế, bên quầy tính tiền, người ta không treo thẻ môn bài mà lủng lẳng những cây búa luôn được mài bén ngót. Từ đó chợ được gọi là "chợ búa". Dao động Trong bất cứ tình huống nào, dù thật nguy kịch, ta cũng không được dao động. Bởi dao động đồng nghĩa với thất bại, với tiêu đời. Dao dộng là một cách nói tắt của "động dao, động thớt". Nghĩa là chuẩn bị ra tay dùng dao mà hạ thủ. Không chết cũng bị thương là cái chắc! Đại nhân Bà con ta, nhất là từ khi rộ lên phong trào phim bộ chưởng Hồng Kông, dùng cái danh xưng chữ Hán này để gọi các bậc trưởng thượng, những người quyền cao, chức trọng, đáng tôn kính. Theo ngữ nghĩa này thì toàn thể Gia đình THKT đều là các đại nhân, vì đều đã ở vào cái độ tuổi mà người đời phải tôn kính (...và chuẩn bị... tôn thờ). Nhưng nếu coi đây là một từ Hán Việt giao duyên thì "đại nhân" còn có nghĩa là "kẻ chuyên làm đại". Mà suy cho cùng cũng nào có sai. Phàm thì là mà rằng các "đại nhân" quyền cao chức trọng thường dễ lộng quyền tự cho mình có cái quyền "làm đại". Vì lẽ đó, 1. Khi được ai đó gọi là "đại nhân", ta chớ tự đắc, coi chừng mình bị hắn "chửi" là "kẻ chuyên làm đại, làm bậy". 2. Khi được xưng tụng là "đại nhân" theo nghĩa tích cực, ta phải tự dặn lòng mình rằng: hãy luôn cẩn trọng, đừng có "làm đại". Đào hoa Có người biểu "đào hoa" là cách đọc theo tiếng Hán của "hoa đào", giống như "mai hoa" là "hoa mai" vậy mà. Nhưng theo ngôn ngữ thường ngày, đào hoa được dùng để chỉ những đấng liền ông có nhiều hơn một người tình. Với một mức độ nào đó, "đào hoa" là cách nói văn chương, lịch sự của cụm từ "ba lăng nhăng", hay bình dân hơn là "dê xồm", hoặc thô tục hơn là "già không bỏ, nhỏ không tha". Còn để chỉ những chàng trai lịch thiệp, phong nhã được nhiều cô gái rung động con tim, người ta dùng từ "hào hoa". Phải công nhận rằng ông bà mình dùng chữ "đào hoa" quá đã. Nó chính xác cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. "Đào hoa" là "đào" cây "hoa" lên mang về nhà mình xài. Đào một cây thì chẳng ai nói, còn mấy ông "đào" tá lả cây "hoa" quả là tham quá chừng! Đạo sĩ Thầy Đỗ Ngọc Trang từ Elk Grove chuyển thắc mắc của Người Ngây Thơ hỏi về "đạo sĩ". Theo Việt Nam Từ điển Khai Trí Tiến Đức, đạo sĩ là người theo đạo thần tiên của Lão giáo. Nói nôm na là người tu tiên giữa cõi nhân trần. Cái này coi bộ là cái "ám ảnh" đạo sĩ của thầy Nguyễn Văn Hòa. Khác với "thiền sĩ" Đỗ Xanh trốn Nước Biếc Phu nhân ra động Đình Hồ ngồi nhập thiền một mình thoát tục, "đạo sĩ" Hòa Guitar ngồi tựa vào Nước Ngọc Phu nhân gảy đàn tình tang mà tu tiên. Nhưng coi chừng có người vịn cớ mần "đạo sĩ" để né việc nhà, có ông nại cớ để trốn việc chồng! Thiện tai, thiện tai! Nói chung, đạo sĩ là những người tu hành của các giáo phái, khác với tu sĩ là nhà tu hành của các tôn giáo. Đạo sĩ có thể có bùa phép, và điều hấp dẫn nhất là có thể có đạo sĩ chồng, đạo sĩ vợ, đạo sĩ con, đạo sĩ cháu,... Người ta cũng thường dùng danh xưng "đạo" cho những người có hành vi, cách sống khác bình thường, khác thiên hạ. Nó gần giống như "dị nhân". Hồi trước 1975 ở Saigon có thời gian rộ lên những ông đạo, bà đạo thuộc loại... "trời thần". Chẳng hạn có một ông bữa nọ hỗng biết ăn trúng thứ gì mà bắt đầu có cách đi đứng kỳ cục là cứ đi 3 bước thì lùi lại 2 bước. Thiên hạ phong cho ông ta ngoại hiệu "đạo Chậm". Bữa nọ, đang di chuyển cà giựt cà tàng kiểu hỗng giống ai ở khu vực công viên Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành, ông ta "mót" quá, chịu không nổi nên "tháo nước trong người" ngay tại chỗ. Khi nhác thấy cảnh sát xách dùi cui chạy tới, ông "đạo" nhà ta hoảng hồn ba chân bốn cẳng bỏ chạy có cờ. Vậy là mất ngoại hiệu "đạo Chậm". Cứ chiếu theo tiền lệ thì mấy vị trong cái gánh xiếc "Đạo Nổ Ngàn Phương" của thầy Đỗ Xanh cũng có thể được gọi là "đạo sĩ". Bởi thiên hạ làm xiếc người, xiếc thú, còn họ chơi khác thường làm xiếc chữ. Họ lại có cái công phu "nổ banh xác" luôn, nổ tới mức Bác Ba Phi sống lại cũng phải bái làm sư phụ! Cứ coi cái công phu "đạo nổ" của thầy Ngô Vàng ắt rõ! Còn trong quân đội, hỗng rõ "đạo sĩ" nằm ở khúc nào trong nhóm hạ sĩ quan: hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ? Giới văn nghệ thì tẩy chay những kẻ bị dán cái mác "đạo sĩ", viết tắt của "đạo chích văn chương". Đó là những kẻ "cầm nhầm" văn thơ của người khác làm của mình. Đâm chuột Ở Mộc Hóa có một món đặc sản là thịt chuột đồng. Bữa nọ, có anh bạn được hỏi: "Mùa hè mỗi ngày ông đi "đâm chuột" mấy lần?" Lâu rồi thiên hạ truy bắt dữ quá, chuột đâu còn nhiều mà ngày nào cũng đi đâm. Bởi vậy, anh bạn trả lời: "Năm bữa nữa tháng mới làm một lần". "Trời thần đất quỷ ui, sao ông ở dơ dữ vậy? Ai mà chịu đời cho nổi! Hôi rình! Thúi hoắc!" Này nhé, "đâm chuột" tức là "đâm tí". Mà "đâm tí" là nói lái của "đi tắm" đó mà! Giả đò Đò dọc là đò chạy dọc theo sông, từ địa phương này tới địa phương khác. Thí dụ ngày xưa dân THKT ngồi tắc ráng chạy từ Cai Lậy vô Mộc Hóa. Đò ngang là đò chở khách từ bờ bên này qua bờ bên kia sông. Thí dụ ngày xưa đi đò dưới chân cầu Cá Rô để từ thị xã Mộc Hóa qua xã Bình Hiệp. Gọi đò là đứng trên một bờ sông cất tiếng gọi đò đưa mình qua sông. (Nhưng ra Huế, đứng trên bờ sông Hương mà "gọi đò" thì có khi không phải để qua sông mà là ... ra giữa sông!). Nhưng giả đò thì hỗng phải là đò giả. Nó lại có nghĩa là giả bộ, làm bộ. Hãy nghe bà Tám kêu thằng con: "Mày giả đò qua nhà cô Chín mượn cái phảng để coi tía mày đang mần cái giống gì ở nhà cỗ mà hễ xổng một cái là tót ngay qua bển." Tội nghiệp thầy Ngô Nguyên soái, chuyên gia gọi đò của THKT. Thầy đã thắc thỏm, khắc khoải, thống thiết khan cả tiếng, rát cả họng gọi đò hết sớm lại chiều mà cô lái đò năm xưa cứ "giả đò" không nghe! Đò ngang, đò dọc gọi đò Trách sao cô lái giả đò không nghe... Hành hương Theo từ điển chính thống, hành hương là ra khỏi nơi mình ở, nơi mình thường sống để đến một nơi linh thiêng nào đó. Nhưng không chỉ có ý nghĩa tâm linh, hành hương còn là một từ tượng hình, tượng cảnh. Bởi ở các nơi thờ tự, cúng bái, thiên hạ thường đốt hương (nhang) mù mịt. Vì vậy, hành hương còn có nghĩa là "hành hạ mấy cây hương" (đốt lu bù) hay bị "hành hạ bởi hương" (do ngột ngạt mùi khói hương). Hấp hôn Ai cũng biết "hấp" là làm cho nóng lại. Như hấp cơm. Nó na ná như "hâm" (hâm canh). Nhưng "hâm" thì dùng lửa bếp tác động trực tiếp lên xoong chảo, còn "hấp" thì chủ yếu dùng nguồn nhiệt tạo hơi nóng để làm cho vật thể nóng lên. "Hấp" vì thế sẽ "đổ nhiều mô hôi". Suy ra: "hấp hôn" là làm nóng lại cuộc hôn nhân. Sở dĩ dùng "hấp hôn" hay hơn "hâm hôn", vì chuyện này cần phải "đổ nhiều mồ hôi nước càng tốt" và một lẽ nữa là nó gợi ngay liên tưởng đến từ bà con "hấp hối". Cuộc hôn nhân mà không được làm nóng, giữ nóng liên tục thì dễ dàng đi tới... hấp hối! vậy thì, tùy bạn chọn: hấp hôn hay hấp hối! Ít ly Hôm rồi một số thầy trò THKT về thăm lại Mộc Hóa. Về Đồng Tháp Mười mà không bị đổ rượu mới là chuyện lạ! Nhưng sao mới uống có "ít ly" lại xỉn quắc cần câu vậy cà? Xét đúng bài bản thì tuy "ít ly", nhưng dân Đồng Tháp Muời chơi toàn ly cối rượu đế, chịu đời sao thấu! Còn xét về nghĩa tửng từng tưng, "ít ly" là style nói lái của "y lít" đó mà! Kiểu nào cũng từ chết tới bị thương! Làm thinh - Thầy Ngô Nguyên Soái: Kiến MZ ơi, trong tiếng Việt chúng ta, từ Thinh có nghĩa là Thanh (tiếng động). Nhưng tại sao ngày xưa, nhiều lần tôi đã "làm thanh" với một cô hàng xóm (dung nhan cũng khá đèm đẹp) để được làm quen nàng, nhưng mà rồi nàng lại cứ… "làm thinh"?! Đáng lẽ "làm thinh" đúng nghĩa là nàng phải lên tiếng trả lời “yes” hay “no” cho tôi chứ, đàng này cô nàng làm thinh lại có nghĩa là… nín thinh! Ôi! sau lần đó về nhà nhớ lại, tôi bị.. "buồn ba bốn ngày"! Còn chần chừ chi nữa mà Kiến MZ không bình loạn dùm cái từ ngữ rắc rối, khó hiểu này đi, kẻo không, có người hiểu lầm rồi lại phải bị… "buồn xong vẫn buồn"! Mong Kiến MZ đừng... làm thinh trước khẩn cầu này. Đa tạ. - Dạ thưa thầy Ngô Nguyên... Trái (dạ xin lỗi, Bắp Nguyên Soái; lại nhầm thầy Ngô Nguyên Soái), đã có lệnh của thầy thì làm sao học trò dám... làm thinh! Ở đây có 2 kịch bản. 1. "Thinh" có nghĩa là "thanh". Thật may cho thầy Ngô vì ngày đó cô hàng xóm "làm thinh" (với nghĩa là nín thinh). Nếu cô ấy mà "làm thanh" rùm beng lên khắp đầu làng cuối xóm thì thầy chắc ê ẩm cái tấm thân "cá lành canh truyền thống" rồi. Vấn đề ở đây cần phải giải mã là vì sao cô hàng xóm lại "làm thinh" khi thầy Ngô "làm thanh"? 2. "Thinh" theo ngôn ngữ của quý phụ nữ. Các chuyên gia nói rằng phụ nữ thường nói hay làm ngược với những gì lòng mình nghĩ. Thí dụ, "phụ nữ nói có là không, nói không là có". Cô hàng xóm "làm thinh" có nghĩa là đồng tình và nhá đèn xanh "tới luôn bác tài"! Vấn đề ở đây cần phải giải thích là vì sao thầy Ngô Nguyên Soái lại không nhận ra "tín hiệu" của cô hàng xóm? Hậu mạt chược là mạt trượt Thầy Đỗ Hiền triết vừa tìm lại được bạn xưa, thầy Trịnh Đình Loạt, sau 42 năm xa nhau, đã vội chuyển cho Kiến MZ thắc mắc của nhân vật Người Ngây Thơ rằng: Xin cho hỏi chơi mạt chược là chơi cái gì? Có phải nguyên văn tiếng Nam bộ là "mạt trượt"? Chơi bài kiểu gì mà một bên bị trượt, một bên bị mạt, thì... I dunno man - Người ngây thơ. Thú thiệt là trong Tứ đổ tường, mỗi thứ Kiến MZ chỉ dính có một nửa (xách chứ không hút, cờ chứ không bạc, chè chứ không rượu, gái chứ không trai), nên cái vụ này nằm ngoài vòng "đá" của Kiến MZ. Đành phải trổ tài sục sạo thôi. Mạt chược là một môn chơi cờ có nguồn gốc Trung Hoa. Mạt chược là từ Hán Việt kép, được phiên âm theo tiếng Quảng Đông "Ma-Tước" (con chim sẻ). Còn phiên âm theo tiếng Phổ thông (Quan Thoại) là "Ma-Gioong", vì thế trong tiếng Anh, mạt chuợc được dịch là Mahjong. Sở dĩ có tên mạt chược là vì con bài thứ nhất của bộ bài, tức con Nhất Sách, có ký hiệu là con chim sẻ. Quân cờ mạt chược na ná như domino của phương Tây. Bộ bài mạt chược của người Hoa chỉ có 144 quân. Người Việt "giàu tính sáng tạo" bổ sung thêm, lên tới 160 quân và thậm chí còn hơn thế nữa. 4 hay 6 người chơi. Mạt chược được chơi trên một chiếc bàn vuông. Chơi mạt chược được gọi là xoa mạt chược. (Xin click vào đây để tìm hiểu thêm về mạt chược.) Do hậu quả của mạt chược mà người ta đọc trại nó thành mạt trượt. Đam mê mạt chược cầm bằng là sẽ "mạt rệp" và "trượt trớt lớt". Cũng như mọi loại cờ bạc khác, mạt chược được "thằng Bần" gọi là bác (cờ bạc là bác thằng bần). Và suy ra, không phải chỉ có mạt chược, mà các món cờ bạc đều có hậu quả là "mạt trượt". Hy vọng Người Ngây Thơ chỉ hỏi cho thỏa óc tò mò, chớ đừng nên dựa thế gần gũi như hình và bóng với thầy Đỗ Hiền triết mà rủ rê thầy Đỗ Xanh, cô Nước Biếc, thầy Loạt và phu nhân gầy một bàn mạt chược nhé. Hồi xưa họ dạy chung trường THKT, nay lại là láng giềng của nhau nơi xứ người, cũng đủ một bàn mạt chược rồi đó. Báo hại từ rày thầy Đỗ tót ra Động Đình Hồ không phải để thiền mà là để nghiền ngẫm nước cờ xoa mạt chược thì... thiện tai! thiện tai! Mệt nghỉ Ở đây, mệt nghỉ không có nghĩa là "mệt rồi thì nghỉ". Mệt nghỉ không phải là nghỉ mệt. Mệt nghỉ ở đây hàm nghĩa là vô số tận, nhiều lắm, không hết. Thí dụ: Xài tiền mệt nghỉ. Ăn mệt nghỉ. Khi nghe ông chủ bảo "Làm mệt nghỉ" mà bạn hí hửng rằng "làm tới khi nào mệt thì nghỉ" thì chắc chắn bạn sẽ phải húp cháo vì bị cho nghỉ vĩnh viễn! Nghệ nhân Nghệ nhân là một người khéo tay, khéo chân, đạt tới mức thượng thừa trong một môn nghệ thuật nào đó. Từ điển giải thích như vậy. Nhưng tìm đỏ con mắt, lục tung cả cái bộ đại từ điển bách khoa trực tuyến Wikipedia cũng không tìm ra ở đâu cắt nghĩa "nghệ nhân" là một thuật ngữ y khoa. Cũng không rõ các bác sĩ trong Phòng mạch THKT đã từng học qua chưa? Thì nè, "nghệ" là màu vàng (vàng như nghệ đó mà), còn "nhân" là người. Nghệ nhân - người màu vàng đích thị là người mắc bệnh gan rồi. Mà đây là giai đoạn hết thuốc chữa à nghen, vì bình thường thì người bệnh gan chỉ vàng hai con mắt thôi, đàng này vàng tới nguyên cả body thì chí nguy rồi. Vì thế, từ nay, có ai xưng tụng (hay chửi rủa, tùy ngữ cảnh) mình là "nghệ nhân", bạn cũng đừng có quá "ham" mà bị "hố" đó nghen! Nhớ thương Nhớ thương là để xác định cái sự nhớ cồn cào ruột gan này là do “thương quá là thương” mà ra. Tiếng Anh thường dùng động từ “miss”. Nó phân biệt với “nhớ” (remember) là một trạng thái của bộ não để nhắc nhớ, nhớ lại, thí dụ như “nhớ ai để đòi nợ”. Nhưng nhớ thương cũng có năm bảy đường. Nhớ thương… yêu thì thật ấm lòng, còn nhớ thương… hại thì nhói con tim. Quả là ba mẹ thật sáng suốt và nhìn xa trông rộng khi đặt tên con gái rượu là Nhớ Thương. Nó hàm nghĩa “nhớ một người tên Thương” hay nhắc nhở “nhớ thương nó với nhé”. Học Việt văn Trung học, mình từng bình giảng bài ca dao mà nhà phê bình Hoài Thanh đánh giá là “hay nhất Việt Nam”. Nó như vầy: Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên Đêm qua em những lo phiền Lo vì một nỗi không yên một bề. (Xin click vào đây để nghe bài hát Thương ai, nhớ ai do nhạc sĩ Phạm Duy phát triển từ bài ca dao này). Kiến MZ có người anh em Kiến Đen hồi THKT từng trồng cây tràm (ở KT hiếm có cây si) với một nàng tên Nhung ở nhà thờ Mộc Hóa. Gã bèn hì hục mần bản nhạc có tên là Nhớ nhung, kết bằng câu xanh dờn: “Nhớ nhung nhiều, trọn đời anh nhớ nhung”. Kiến Đen tính là khi gặp nàng Nhung sẽ “khè” rằng: “Anh nhớ em tới mức làm nhạc nhớ em nè!” - (Nhung, viết hoa). Còn với mấy nàng có tên không hợp để mần thơ, mần nhạc thì gã dụ khị: “Anh nhớ nhung em quá chừng nên mần nhạc nhớ nhung nè!” – (nhung, viết thường). Hỗng biết từ sáng tới giờ gã đang mần cái gì mà gọi điện không nghe máy! Ôn cố tri tân Ôn cố tri tân là một thành ngữ Hán Việt có nghĩa là ôn lại chuyện cũ để biết làm chuyện mới. Nói cho gọn là "rút kinh nghiệm" đó mà. Vào mỗi cuối năm, từng tập thể, từng cá nhân có tập tục tốt đẹp là tổng kết lại một năm qua và đề ra kế hoạch cho năm mới. Và năm mới chỉ có thể thành công dựa trên những nền tảng (cả những thành quả lẫn những kinh nghiệm) của năm cũ. Có điều hỗng giống ai là dịp cuối năm đầu tiên kết nối lại được với nhau, bà con Gia đình THKT mình lại không ôn cố tri tân như thiên hạ mà hè nhau đi vọng cố nhân. Chẳng lẽ phiên bản 2010 ôn cố tri tân của THKT là "ôn cố nhân, tri tân nhân"? Thiệt tình, ai chẳng có cố nhân để nhớ. Chí ít cũng một người. Đó là chưa kể các bậc "nguyên soái tình trường" có danh sách cố nhân dài sọc như sớ Táo quân: A Lìn, sà-rông, răng khểnh, môi vều,... chỉ nghe liệt kê thôi cũng biết cuộc đời ốm o triền miên. Chỉ có kẻ bạc tình, có trăng quên đèn mới không nhớ cố nhân. Nhưng vọng thì cũng có ba bảy đường vọng. Vọng sao cho vui cửa, êm nhà mới đáng là THKT chân nhân! Chữ "vọng" còn cặp kè với chữ "tưởng" thành "vọng tưởng" những chuyện hão huyền, viễn vông. Bởi vậy mới cần tới câu: Cố nhân là của ngày xưa Vọng thì cứ vọng, nhưng chừa tưởng ra! Thôi thì hãy làm theo cái nghĩa tích cực của "ôn cố nhân, tri tân nhân" là rút kinh nghiệm (ôn) với người xưa mà biết (tri) xử sao cho tốt đẹp với người nay! Gia đình THKT mình chỉ toàn là những hảo hán, những anh thư giàu tình cảm và tình nghĩa, bởi nếu thiếu hai cái chữ "tình" này thì chúng ta đâu thể xúm xít quây quần bên nhau, bất chấp không gian và thời gian, như thế này! Ông nội... dư Thú thiệt, lần đầu tiên trong đời Kiến MZ mới được nghe tới cái từ “ông nội dư” do thầy Ngô Nguyên soái xưng danh. Nói theo style của thầy Đỗ Hiền triết thì ở đâu mà “tòi” ra thêm mấy ông nội, bà nội vậy ta? Hy vọng “ông nội dư” ở đây chỉ có nghĩa như vậy. Đó là có thêm mấy ông nội “ngang hông”, mấy ông nội “khuyến mại” (bonus grandpa), mấy ông nội ăn theo. "Ông nội dư" được ông nội "chân truyền" ban tặng cho bằng hữu có chọn lựa trong buổi trà dư tửu hậu, không có gì phải ràng buộc như "ông nội nuôi". Riêng với thầy Ngô Vàng thì thầy ấy sắc phong danh xưng "ông nội dư" với tiêu chuẩn không hề dễ xơi như ăn xôi bắp đâu: Cha mình kết giao thâm tình như anh em ruột với người bạn nào đó thì con của mình gọi những người đó là "ông hay bà nội dư". Tình cảm của đứa trẻ hoàn toàn thực sự xem "ông bà nội dư" như là ông bà nội ruột. Và quan trọng nhất là chỉ khi nào những người lớn này xét thấy thực sự họ yêu thương nhau như anh em ruột. Từ "ông bà nội dư" không thể bạ ai cũng gọi được vì "ông bà nội dư" là danh hiệu cao quí, trân trọng của những tấm lòng với tấm lòng. Đây là danh xưng cổ và không được phổ biến lắm nên ít người biết và hiểu. Chẳng rõ là với số lượng "ông bà nội dư" có thể đông tới cả tiểu đội, trung đội như vậy, liệu có phải lập ra "hội đồng ông bà nội dư" không? Cũng có điều còn cà ngơ cà ngất: ông nội "chân truyền" gọi là "ông nội ruột", vậy sao anh em kết nghĩa thâm tình với ông nội ruột lại không được gọi luôn là "ông nội ruột dư" cho nó tiện hơn? Quả thiệt là cháu nội có số đẻ bọc điều nên ngoài ông nội “có sẵn để xài” còn có thêm một mớ “ông nội dư” sơ-cua. Giống như cô cháu Bạch Tuyết có 7 “ông nội” chú lùn. Đó là một loại của dư, của để. Cầu mong “ông nội dư” ở đây được gọi hỗng phải theo kiểu “Hội đồng Dư” trong vở cải lương Tiếng hò sông Hậu, một ông hội đồng thất nhơn thất đức top-level! Ông nội ngang hông mừng vui và hạnh phúc khi được xưng tụng là “ông nội dư”. Còn ông nội “chân truyền” mà để bị gọi là “ông nội dư” thì thiệt là tiêu Vên Vên. Ngay cả các vị được xưng tụng là "ông bà nội dư" cũng phải ráng mà sống sao cho xứng đáng. Kẻo không thôi lại bị thằng cháu nó lầu bầu: "Có một ông nội đã mệt thấy mụ nội (xin lỗi) rồi, đàng này có cả bầy ông nội dư, bà nội dư! Chịu đời sao thấu!" Tất nhiên trên đời này phàm có dư thì ắt có thiếu. “Ông nội thiếu” hàm nghĩa là “thiếu ông nội”, một cách gọi kiêng húy để chỉ những ông nội đã phủi cẳng nhảy lên ngồi tréo nguẩy trên bàn thờ! Bất hạnh thay cho cháu nào sinh ra không còn ông nội nữa. Làm sao có được cái hạnh phúc được bú sữa ông nội… pha? Có chăng chỉ có thể xài tạm sữa ông già Longevity Milk mà thôi! Kiến MZ là người nói có sách, mách có chứng. Nếu sữa bò là sữa vắt từ con bò, thì sữa ông già vắt từ đâu? Răng khểnh Răng khểnh là chiếc răng mọc lệch, nhô lên khỏi hàng ngũ. Nếu nó chỉ nhô lên vừa phải và nằm ở vị trí đắc địa trông hay hay đáo để thì có duyên và được gọi là răng khểnh. Còn nếu ngược lại, nó bị gọi là răng nanh. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, răng khểnh chỉ có duyên khi nó ngự trong khuôn miệng của người mà ta yêu thương. Còn nếu không, chiếc răng mọc vô trật tự đó chỉ làm cho cái "bản mặt khó ưa thêm đáng ghét"! Thiên hạ gọi là răng "lòi sỉ". Ảnh chỉ mang ý nghĩa minh họa cho một chiếc răng khểnh rất duyên, không hề có liên can gì tới chiếc "răng khểnh nghiệp chướng" của thầy Ngô Nguyên soái. Tiếng Anh gọi răng khểnh là irregular tooth, chỉ rõ là thứ vô trật tự, bất quy tắc. Mà trên đời này, cái gì bất quy tắc thì tới 99% là đáng ghét rồi. Thí dụ, học ngoại ngữ, ai cũng khiếp sợ ba cái động từ bất quy tắc (irregular verb), danh từ bất quy tắc,... Có lẽ chỉ có 1 thứ bất quy tắc duy nhất đáng yêu, chính là việc chia cái động từ... yêu. Cái sự chia động từ yêu thì chẳng ai giống ai, không tuân theo một quy tắc nào hết. Tới mức ông hoàng thi ca lãng mạn Xuân Diệu còn phải thốt lên "Làm sao định nghĩa được tình yêu. Có nghĩa gì đâu một... cái khều (xin lỗi, buổi chiều)". Xét về phương diện nha khoa, răng khểnh là kẻ thù số 1 của các nha sĩ. Nó bị quy trách nhiệm làm "ảnh hưởng xấu tới vệ sinh răng miệng". Xét về mặt tình nghĩa keo sơn của Gia đình THKT, răng khểnh gây tổn thương tinh thần và tổn hại vật chất cho thầy Ngô Nguyên soái. Qua chứng cứ do thầy Ngô Bảo Toàn không đánh mà khai, răng khểnh đích thị là răng nanh. Mà răng nanh thì của loài thú ăn thịt sống. Bằng chứng là chiếc răng khểnh năm xưa đã xơi tái hàng chục con heo (heo đất cũng là heo) của thầy Ngô nhà mình! Tội nghiệp ông thầy, không thể nào mập ra nổi chỉ vì 40 năm nay cứ phải hì hục "Bắc thang lên hỏi ông Trời,... (tự ý đục bỏ câu bát)". Sà-rông, sà-lỏn, và hầm nắng Hỗm rày nghe võ lâm đồn rằng thầy Đỗ Hiền triết đang rắp ranh lập gánh xiếc chữ, hình như – cũng theo đồn đại – để có cái chức danh “giám đốc” oách như thiên hạ. Chưa kịp xác minh thì sáng nay Kiến MZ đã nhận được thư thầy Đỗ chuyển tới hai câu đố chữ mới đọc thiếu điều muốn té giếng của Người Ngây thơ (không biết có “vô số tội” không?) Đó là: Cớ sao trong hầm lại có nắng? Sà-rông và sà-lỏn, cái nào có trước? Cái hầm nắng này có lẽ nó cũng “sêm-sêm” như cái hầm gió. Hình như chỉ có ở xứ “Mi-chỉ-gàn” mới có cái hầm nắng như thế. Phải chăng “hầm nắng" là viết gọn từ “hầm tránh cái nắng quái cuộc đời”? Hầm có nắng nếu không phải là nắng nhân tạo thì đích thị là có lỗ mọi rồi. Nhưng suy cho cùng, hầm có nắng bởi vì có mây hồng, mây hồng chỉ xuất hiện ở những nơi có nắng (khôn cãi trời đất luôn vì tối thui ai mà thấy được mây hồng thướt tha cỡ nào). Thiếu nữ Khmer trong những chiếc sà-rông truyền thống. Còn sà-rông, sà-lỏn ư? Vào cái thời ăn lông ở lỗ, sau khi tò mò nếm thử “trái cấm”, Adam và Eva mới khám phá được trên thân thể mình có những vị trí quá độc địa, cần phải che đậy làm... của riêng (chủ yếu họ sợ kẻ khác thấy được mà nảy sinh tà ý “chôm” mất chứ không phải vì mắc cỡ - như nhiều nhà nghiên cứu suy diễn đâu). Do phụ nữ vốn tính e thẹn (ở đây không bàn tới nó là thuộc tính hay sự giả đò), nên có nhu cầu che đậy cao hơn. Vì thế mà sà-rông ra đời trước. Nhưng phụ nữ là sinh vật duy nhất có gene thời trang hòa trong máu (nồng độ tùy người) nên phải thay xiêm đổi áo liền tù tì. Cái sà-rông đầu tiên bị loại ra, bỏ thấy uổng, nên Adam dùng để may cái sà-lỏn cho mình. Nó có cái vòng lẩn quẩn thế này: sà-rông may sà-lỏn, rồi sà-lỏn kiếm tiền chạy ra fashion shop mua sà-rông cho người may sà-lỏn. Có một chi tiết là cả sà-rông lẫn sà-lỏn đều là trang phục phi giới tính (unisex), nam hay nữ đều mặc được tuốt luốt. Xin hỏi lại Người Ngây thơ: cớ sao không hỏi luôn 2 câu nữa cho nó đủ bộ tứ: Tại sao trái đậu lại có hột đỗ? Tại sao kiến đen lại đen thui? Sáng kiến Người ta dùng từ “sáng kiến” để chỉ ý tưởng mới, nhất là để giải quyết một vấn đề gì đó. Nhưng vì sao lại là sáng kiến, chứ không là “trưa kiến”, “tối kiến”? Cách dùng từ “sáng kiến” này có luận cứ khoa học rõ ràng và vững chắc. Trước nay các nhà nghiên cứu đều nhận ra rằng: sau một đêm được nghỉ ngơi và nạp lại năng lượng, bộ não con người sáng suốt và minh mẫn nhất là vào buổi sáng. Vì thế, cũng chỉ có thể là sáng suốt chứ không có trưa suốt, tối suốt. Xin mở ngoặc nói thêm: “trưa suốt” là chỉ người trưa nào cũng làm một giấc thẳng cẳng, còn “tối suốt” là chỉ kẻ tối nào cũng la cà nhậu nhẹt. “Sáng kiến” còn được viết tắt bởi cụm từ “sự SÁNG suốt của dân KIẾN Tường”. Có nghĩa là bà con THKT mình ai cũng có một bụng đầy sáng kiến. Mức độ thế nào chỉ tùy thuộc vào đêm hôm trước ngủ nhiều hay ít, ngủ ngon hay không ngon. Xét về ngôn ngữ học Hán – Việt, “sáng kiến” (buổi sáng gặp nhau) là một thói quen đã trở thành thuộc tính của Gia đình THKT kể từ hạ tuần tháng 3-2010. Buổi sáng thức dậy, vừa nhâm nhi cà phê hay nhẩm xà, các thành viên THKT thường vào Web THKT để gặp nhau và coi có gì mới không. Sinh nhật Cái từ sinh nhật quá đỗi quen thuộc này coi vậy mà rắc rối à nghen. Từ kép chữ Hán này dịch sát sàn sạt là "ngày sinh". Nhưng nó lại không dùng để chỉ ngày ai đó thật sự cất tiếng khóc chào đời mà dùng cho ngày kỷ niệm ngày sinh của người đó. Tiếng Anh phân biệt rất rõ: birthday là sinh nhật, còn date of birth hay day of birth là ngày sinh. Đối với người Việt Nam, sinh nhật có nghĩa là kỷ niệm ngày sinh từ năm thứ hai trở đi. Chứ kỷ niệm ngày sinh lần thứ nhất, tức tròn một tuổi, người Việt mình gọi là thôi nôi. Thế rồi, từ năm 60 tuổi trở đi, đặc biệt vào các năm chẵn chục, người ta không gọi là sinh nhật mà là mừng thọ. Ai sống tới 60 tuổi thì bắt đầu được con cháu mừng thọ. Năm 80 tuổi, 90 tuổi được gọi là thượng thọ. Còn 100 tuổi là đại thọ. (Xin lưu ý là từ 60 tuổi đã là thọ, còn việc phân chia "đẳng cấp" thọ thì còn tùy từng nơi. Có khi 70 tuổi đã được gọi là thượng thọ, 90 tuổi đã là đại thọ.) Nhưng có khi nào bạn nhận ra cái sự bất hợp lý này chưa? Đã gọi là "sinh nhật" (mừng ngày sinh) thì phải tổ chức mỗi tháng một lần chứ. Thí dụ, Kiến MZ sinh ngày 28 thì lẽ ra hàng tháng cứ tới ngày 28 là "tiến hành" nhận quà cáp thiên hạ! Nào có ai gọi là "sinh nguyệt" hay "sinh niên" đâu mà phải đợi một năm mới mừng một lần! Tái ngộ Theo từ điển chính thống, tái ngộ có nghĩa là gặp lại (tiếng Anh là meet again). Nó được ghép bởi hai từ Hán Nôm: tái (lại) và ngộ (gặp). Còn theo Giang hồ Đại từ điển Tầm nguyên (hình như của nhà xuất bản Tầm Bậy do chuyên gia Tầm Bạ biên soạn), sở dĩ cái vụ gặp lại được gọi là tái ngộ vì xuất phát từ thực tế: khi gặp lại nhau sau nhiều năm xa cách, người ta dễ xúc động tới mức gương mặt "tái" đi coi rất "ngộ"! Tất nhiên cũng có nhiều tình huống khác khiến người ta tái mặt, nhưng những kiểu "tái" đó coi không có "ngộ". Thí dụ, mặt tái vì giận hay mặt tái vì sợ thì không thể nào coi ngộ được hết. Tế nhị Vì sao chuyện "tế nhị" chỉ nên hành xử ở chốn riêng tư, không nên bày ra trước mặt bàn dân thiên hạ? Rất đơn giản, ta chỉ việc chiết tự và phân tích hai chữ này. Tế nhị ở đây được xét như một từ Hán nôm. "Tế" là "cúng" và "nhị" là "hai". "Tế nhị" có nghĩa là "cúng hai", mà "cúng hai" là cách nói lái của "cái hun". Vì thế, người "tế nhị" sao lại "hun" nhau giữa thanh thiên bạch nhật ở chốn đông người? Thất kinh Đây là một thuật ngữ (term) trong ngành sản phụ khoa. Nó được ghép bởi THẤT (mất, không còn) và KINH (kinh nguyệt). Thất kinh có nghĩa là có thai. Từ này đặc biệt tượng thanh, tượng hình mô tả cảnh mặt mày xanh lè, mồ hôi đầm đìa, chân tay lẩy bẩy đối với những ông chán cơm, thèm phở hay những chàng ăn cơm trước kẻng khi thất kinh nghe nàng báo thất kinh! Thi hào Nguyễn Du cũng từng vận dụng thuật ngữ này. Trong Truyện Kiều, ông đã mô tả kỳ án nàng Kiều có thai (với ai à ta?) bằng câu: Đầy sân gươm tuốt sáng lòa, Thất kinh nàng chửa biết là làm sao. Tình già Tình yêu đích thực làm gì có tuổi để mà cân đong đo đếm là tình già, tình non, tình trẻ, tình xồn xồn. Vì thế, "tình già" ở đây, chí ít là trong Gia đình THKT, chỉ nên hiểu là "tình của người già". Khi đã yêu thì bận tâm chi là già hay trẻ. Khi đã yêu thì ai cũng như ai thôi, cũng cuồng nhiệt, cũng đắm say, cũng ngô nghê, cũng sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu. Yêu là lý lẽ của con tim, cái lý trí mà xía vô là hư bột hư đường ráo trọi. Kiến Đen từng viết trong bài thơ Yêu: Yêu nhau mặn muối cay gừng Xìu xìu ển ển thì đừng có yêu! Tình thân Tình thân thường được dùng và khoái được dùng với cái nghĩa của cụm từ "tình cảm thân thiết". Có nghĩa là tình thân có cấp độ cao hơn tình cảm bạn bè bình thường. Nó cũng phi giới tính (unisex), nam hay nữ đều dùng được và không hề gây ngộ nhận Pattaya. Và như vậy, giữa hai thể nhân khác phái tính, từ tình thân phát triển tới tình yêu có phần gần hơn, dễ hơn. Tất nhiên là còn phải trông mong vào sự hên xui và duyên số! Rõ ràng chẳng phải ai cũng có thể được trao, được hưởng quy chế tình thân. Nó là một loại "limited edition" (phiên bản hạn chế) và thậm chí "selected edition" (phiên bản chọn lọc) của tình cảm giữa người và người. Tình thân không phải là thứ bất biến, thậm chí còn dễ biến đổi hơn nhiều thứ trên đời này, mà thường nhất là bị hao mòn qua thời gian và không gian. Bởi vậy, cả hai phía đều phải có ý thức và cùng nỗ lực không ngừng để duy trì cấp độ của tình thân. Nhưng tình thân còn mang một cái nghĩa xam xám. "Thân" trong tiếng Hán Việt là cái con khỉ. Vậy, tình thân có khi bị biến thành "tình cái con khỉ", "tình của con khỉ". Thật ra, loài khỉ cũng có cái tình của nó, và nếu thấy loài người dùng chữ "tình thân" với hàm ý xấu, nó có thể khởi kiện ra tòa án Thiên nhiên vì cảm thấy mình bị xúc phạm. Chỉ có điều, khỉ là khỉ, người là người, tình cảm của loài người mà bị coi giống như tình cảm của loài khỉ thì chỉ còn có nước ngước mặt lên trời mà cười ba tiếng, khóc ba tiếng, rồi cảm thán: "Trò khỉ!". Tội tình Trong nhạc phẩm Bài không tên số 4, nhạc sĩ Vũ Thành An trăn trở: "Nói cho quên đi những tội tình". Rồi dân gian ta khi ám chỉ chuyện "hành hạ" nhau lại có cách nói là "làm tình, làm tội" nhau. Nghe mà chết khiếp! Cái nào cũng mệt mỏi đứ người cả. Sao mà "tội tình" đến như vậy? "Tội tình" trong ngữ cảnh này là cách nói rút gọn của cụm từ "tội lỗi về tình yêu". Bạn có thấy "tội tình" không? Trăng mật Thầy Ngô Bảo Toàn: Một hôm đi ngang qua nhà vợ chồng anh chị Tám Nhiều hàng xóm, vô tình pha thêm chút "hữu ý", Ngô Nguyên soái tôi được thưởng thức một cuộc tranh luận thật là thú vị cũa hai nhân vật này! Chuyện vầy nè: Anh Tám hỏi chị Tám: Tui đố bà vậy chớ chữ Trăng Mật có nghĩa là gì? Chị Tám cười sằng sặc và trả lời: Dễ ẹt! Trăng Mật có nghĩa là hôm đám cưới xong, hai vợ chồng lựa ngày nào trăng thiệt sáng rồi rủ nhau ra trước sân nhà và lấy mật ra... chấm ăn! Anh Tám nạt to: Tầm bậy, tầm bạ không hè! Trăng Mật có nghĩa là sau ngày cưới, tân lang và tân nương rủ nhau ra sau sân nhà đặng.. Trật Măn!? Nguyên soái tôi thú nhận là... "điếc" luôn, bởi lẽ mình chả hiểu được ý tứ cũa hai vợ chồng này là thế nào! Vậy, Kiến MZ còn chần chờ gì nửa mà không bình "loạn" dùm mọi người để thống nhất nghĩa từ này cho rõ ràng, thích đáng hơn. Kẻo có người hiểu theo kiểu riêng của mình thì... "mệt mỏi" lắm đó. + Hình như thời trai trẻ ở THKT, thầy Ngô Nguyên soái gài bẫy hoài mà cứ bị trật vuột nên giờ thua me gỡ bài cào, rắp ranh gài bẫy học trò chơi. Trăng Mật theo cái nghĩa mà quý thầy cô Việt Văn khuyên dùng là thời gian lãng mạn (trăng) và ngọt ngào (mật) đầu tiên của một cặp vợ chồng. Rất tiếc là nó được xác định chỉ tồn tại có một... Tuần trăng mật. Tiếp ngay sau đó là những năm tháng "dập mật" vì gánh nặng cơm áo gạo tiền và trân mình chịu đựng lẫn nhau của đôi vợ chồng. Nhưng Tuần trăng mật quý giá đó cũng chỉ có ở những đôi tân hôn "cân đối được thu chi" hôn lễ, còn với những tân lang tân nương xui xẻo thất thu thì giai đoạn "dập mật" bắt đầu ngay từ đêm tân hôn! Trong trường hợp này, vợ chồng anh chị Tám Nhiều đã ứng dụng tập quán Trăng Mật theo đúng nghĩa đen thui của nó! Còn Trật Măn ư? Kiến MZ chẳng dại mà đút đầu vô bẫy của thầy Ngô đâu. Chỉ dám giải thích lòng vòng bằng cách chiết tự là: Trật có nghĩa như trong câu "trật áo cho người ta xem lưng", và Măn có nghĩa như trong câu "trẻ em măn vú mẹ". Còn ai hiểu sao và lắp ghép như thế nào thì Kiến MZ vô can! Trần tục Xin nói ngay đây là một chữ chẳng thanh thoát chút nào. Nó được ghép bởi hai chữ "TRẦN truồng" và "TỤC tĩu". Trung dung Thuyết Trung dung là một triết lý sống của Nho giáo. Trung là không ngả về một thái cực nào; dung là dung hòa, thích hợp với hoàn cảnh. Và từ xa xưa, đây là một trong những triết lý sống của người Á Đông. Theo Yahoo! Hỏi & Đáp, với câu hỏi: “Theo bạn, thuyết Trung dung có còn giá trị và ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào?”, câu trả lời được nhiều người đồng tình nhất là: “Sách Trung Dung do Tử Tư soạn ra dựa trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.” Cách sống này còn được “diễn nôm” theo kiểu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Thật ra, không phải dễ đạt được lối sống Trung dung đâu. Cần phải có bản lĩnh và sự thấu nhận. Trung dung là dung hòa những cái thuận nghịch, mâu thuẫn trong cuộc đời để có thể sống tốt mình, đẹp đời. Nếu không cẩn trọng, người ta dễ trở thành ba phải hay bất cần đời. Trung dung là một triết lý sống. Vì thế, nó có mặt trong mọi ngõ ngách cuộc sống. Trong giới tính học, Trung dung là để chỉ giới tính thứ ba – cái giới tính mà: Người kia chẳng gái, chẳng trai Ngọt ngào làm vợ, lai rai làm chồng Trong nhân tướng học, Trung dung là đi chàng hảng, hai hàng. Trong bộ môn xiếc, Trung dung là kỹ năng làm xiếc con lăn. Trong dân gian học, Trung dung là cái bập bênh. Trong đo lường học, Trung dung là cái cân đĩa. Trong lao động học, Trung dung là người có khả năng "bắt cá hai tay", thậm chí mỗi tay một con, hai chân còn tranh thủ khoèo thêm 2 con nữa. Trong tình học, Trung dung là người “sáng chở cơm đi ăn phở, trưa đèo phở đi ăn cơm.” Trong thiền học, Trung dung là một cách thiền lửng lơ con cá vàng, người ngồi thiền một mắt nhắm phiêu diêu, một mắt liếc coi nhất cử, nhất động của phu nhân mình. Trong đạo học, Trung dung là nhà đạo sĩ ngồi dựa vào phu nhân xinh đẹp mà tu tiên. Người bày ra cái vụ "dzô dziên" mà lại "có duyên" cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi thuyết Trung dung. Trong Gia đình THKT, Trung dung là Fan Club của cô Huỳnh Trung Dung – nữ chưởng môn phái Núi Bà Đen Tương tự Từ điển chính thống giải nghĩa "tương tự" là giống nhau, na ná nhau. Tiếng Anh là similar. Nhưng "tương tự" còn là một danh từ ghép chỉ một sản vật. "Tương" là một thức ăn chay làm từ đậu nành. Tương hột đó. Còn "tự" là chùa. Vậy "tương tự" là chỉ loại tương hột làm ở... chùa, để phân biệt với tương làm ở nhà! Tử y và tử trực Chữ "tử y" (tử: chết, y: áo) để gọi cái áo mặc cho người chết. Nhưng nó cũng là món ăn khoái khẩu của nhiều người. Đâu, bạn ra chợ cá Mộc Hóa tìm mua vài con ếch to đem về nhờ bà xã nấu cho nồi "cháo ếch". Bây giờ, bạn trổ tài nói lái nhé: "cháo ếch" tức "chết áo", mà "chết áo" dịch ra tiếng Hán là "tử y". Chữ "tử trực" (tử: chết, trực: thẳng), nghĩa là xác chết được để nằm xuôi tay, thẳng cẳng. Nhưng nó cũng chỉ một loại gia vị quen thuộc. Này nhé, "tử" là "con", và "trực" là "ngay". Vậy "tử trực" là "con ngay", mà "con ngay" nói lái là "cay ngon". Chỉ có trái ớt thì cay mới ngon thôi! (NGUYỄN CÔNG PHONG bình "loạn") Về hưu Về hưu là một động từ được chia chung cho tất thảy thành viên Gia đình THKT. Người thì đã chia động từ này ở thời quá khứ (đã), người thì còn ở thời tương lai gần (sắp). Về hưu có nghĩa là đã tới hạn hết tuổi lao động theo luật định của từng nước. Thí dụ, ở Việt Nam, tuổi hưu là 60 (nam) và 55 (nữ). Còn ở Mỹ, nam nữ đều 65 tuổi mới về hưu. Đó là tính trong trường hợp bình thường. Còn có những người nghỉ hưu non trước tuổi (hoặc tự nguyện, hoặc bị bắt buộc) Về hưu, nghỉ hưu hay hưu trí đều cùng nghĩa, tiếnh Anh gọi là retire. Nhưng nhiều người thích dùng chữ "về hưu" hơn, bởi nó nhẹ nhàng, không gây cảm giác... "hết thời". Cảm nhận và thái độ của người ta đối với về hưu có nhiều sắc thái, cung bậc: - Kẻ tiêu cực: Híc, vậy là hết còn được làm việc nữa rồi. - Người tích cực: Wow, mình đã hoàn thành nhiệm vụ của một đời người. - Kẻ bi quan: Mình hết thời rồi, coi như tàn một kiếp người. - Người lạc quan: Vậy là từ nay mình có quyền nghỉ ngơi, có thể dành nhiều thời gian hơn cho gia đình. Những ai thuộc dạng tiêu cực và bi quan sẽ còn khổ sở, đau đớn hơn nữa nếu như trước khi về hưu thuộc hàng có chức, có quyền. Những người có đủ thâm niên để hưởng trọn lương hưu hay hưởng mức lương hưu kha khá thì nhẹ nhàng, thoải mái hơn những ai có ít năm lao động. Nhưng bất luận thế nào, người ta sẽ phải tốn thời gian, nhiều hay ít tùy từng tạng người, để làm quen với cuộc sống về hưu trong giai đoạn đầu. Bởi dù muốn hay không, về hưu cũng làm xáo trộn mọi nếp sinh hoạt nhiều chục năm qua. Việc đầu tiên là tối hôm trước, ta quẳng cái đồng hồ báo thức đi, sáng mai có thể ngủ nướng tới... khét thì thôi! Vọng cổ và vặn cổ Từ xưa tới nay, bản vọng cổ luôn được xem là bản chủ lực của nhạc tài tử cải lương. Nó không thể thiếu trong bất cứ cuộc chơi đờn ca tài tử hay trên sân khấu cải lương nào. Về Đồng Tháp Mười mà thiếu câu vọng cổ cũng giống như cô thôn nữ thiếu cái áo bà ba. Bản vọng cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác tại thị xã Bạc Liêu. Từ cái tên ban đầu là Dạ cổ, nó được đổi thành Dạ cổ hoài lang rồi cuối cùng là vọng cổ như ngày nay. Tất nhiên, bản vọng cổ ngày nay đã trải qua nhiều cải biên. (Xin tham khảo). Còn vặn cổ là một động tác tương tự như bẻ cổ. Nhiều người có thói quen vặn vẹo, lúc lắc cái đầu qua lại cho các khớp cổ kêu răng rắc, nói là cho nó hết cứng cổ. Ở ngữ nghĩa tệ hại nhất, vặn cổ có nghĩa là làm cho gãy cổ. Như vặn cổ gà, hăm he nhau "tao vặn cổ mày bây giờ",... Vậy thì cớ sao lại tạt qua cái vụ "vặn cổ" khi nói về "vọng cổ"? Bài hát vọng cổ sẽ cực kỳ mùi mẫn, chết lòng người khi được ca đúng bài bản và có giọng ca tốt. Còn nếu không, vọng cổ sẽ tra tấn người nghe như thể là bị "vặn cổ" vậy đó! Tóm lại, hát đúng, hát hay: vọng cổ; hát sai, hát dở: vặn cổ! Xuôi, xui và suôi Thầy Ngô Bảo Toàn: Thầy có một thắc mắc nhỏ (như con thỏ!) này muốn nhờ Kiến MZ "bình lọan" giùm thầy (chi phí masage tay thầy hoàn toàn... cam chịu!). Số là vầy: thầy có một người bạn dạy môn Văn và sau này là nhà văn có tên tuổi. Hôm gặp nhau ở quán cà phê máy lạnh, bên ly cà phê "ấy" chồn thơm phức hòa lẫn trong tiếng nhạc du dương, bạn thầy tâm sự thế này: Tôi có hai đứa con. Thằng nếp nhà tôi may mắn cưới được con vợ ngoan hiền. Tình thông gia chúng tôi không có gì phải phàn nàn, chê trách. Anh Xuôi tôi vui vẻ, chị Xuôi tôi hiền lành. Tội nghiệp con tẻ nhà mình lấy nhằm thằng chồng nát rượu, ham mê cờ bạc! Đã thế, anh Xui và chị Xui này cũng không ra gì. Rồi anh thở dài và lẩm bẩm: Suôi với gia, rõ chán mớ đời! Kiến MZ ơi, Thầy điên đầu với anh bạn già qua mấy chữ Xuôi, Xui, Suôi?! Vậy, em còn chần chờ gì nữa mà không "bình loạn" giùm thầy cho tỏ tường (như cục... đường). + Thật ra thì thầy Ngô Nguyên Soái ăn thịt thỏ ragu xong tráng miệng bằng "cục đường" rồi quăng cục muối cho Kiến MZ mà thôi. Báo hại Kiến MZ phải chạy về động Bàng Tơ thỉnh giáo Trạng Quỳnh tổ sư. Thật ra đây là một kiểu chơi chữ không chỉ có tượng hình, tượng thanh mà còn cả tượng cảnh (ngộ) nữa. - Xuôi: Có được rể hiền, dâu ngoan này đúng là "xuôi chèo mát mái" rồi. - Xui: Gặp phải ông rể "trời đánh ba búa mà vẫn nhăn răng" và ông bà "xui" không biết điều như vậy quả là "xui xẻo tận mạng" rồi. - Suôi: Từ này chớ hề có trong tiếng Việt mà là một style đọc từ "sui". Hình như là kiểu phát âm chữ "u" dài của người Hà Nội. Nó giống như một sự dung hòa giữa "xuôi" và "xui", thôi thì cam chịu thôi, "xui" nào cũng là "xuôi"! Xin mở ngoặc nói thêm: theo từ điển, không có chữ "xuôi gia" hay "xui gia" mà phải là "sui gia". | |||||||||||||||||||||||||
http://www.trunghockientuong.com/blog/chudanghia_001.htm |
Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011
CHỮ "đá" NGHĨA
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét