Âm thanh được ghi trên đĩa CD và định dạng file âm thanh WAV được sử dụng chuẩn định dạng pulse-code modulation (PCM) (tạm dịch là điều biến nhịp, nghĩa là trong analog ta thấy 1 tần số sine diễn tả âm thanh, nhưng trong kĩ thuật số ta không thể có sóng sine mà người ta sử dụng những "nhịp đập" cao thấp khác nhau 1 cách liên tục để diễn tả cần đúng nhất hình dạng sóng sine") . Đây là những tín hiệu âm thanh gốc và hoàn toàn không được nén.
Theo chuẩn PCM, mỗi giây âm thanh được lấy mẫu với tần số lấy mẫu 44.1KHz, và mỗi mẫu được diễn tả bởi 16 bit dữ liệu. Có nghĩa là trong 1 phút nhạc/âm thanh ta có:
44100 đợt lấy mẫu X 2 kênh trái phải X 2 bytes (16 bit = 2 bytes) X 60 giây = 10.584.000 bytes = 10.1 Mb
Như ta đã biết, 1 CD thường có dung lượng là 750Mb, hoặc lưu được 74 phút nhạc, vì thế nếu bạn nhân con số 10Mb của mỗi phút nhạc cho 74 bạn sẽ thấy rõ tại sao CD nó lại như vậy
Như vậy tóm lại, 1 giây của âm thanh gốc sẽ có bitrate là 1411kbps
MP3, WMA, ... - Lossy compression (nén mất dữ liệu)
Với sự phát triển của PC và internet, nhu cầu chia sẻ thông tin và nhạc càng ngày càng đc đòi hỏi cao. Nhưng người ta không thể nào gửi cả album nhạc đến 700Mb qua internet với tốc độ èo uột 56kps thời đấy được. Do đó các nhóm nghiên cứu, các tổ chức, và nhiều công ty khác nhau đã cố gắng tìm ra những định dạng âm thanh mới sử dụng những thuật toán riêng để nhằm giảm bớit dung lượng dữ liệu cần đề diễn tả âm thanh gốc cùng lúc đó cố gắng giữ cho âm thanh gần với âm thanh gốc nhất.
Có rất nhiều định dạng khác nhau đã ra đời như mp3, wma, aac, ogg, mpc, atrac, ... Chúng hoạt động gần giống nhau nhưng mỗi định dạng có 1 thuật toán khác nhau để xác định xem giữ lại mẫu âm thanh nào, bỏ mẫu âm thanh nào, hoặc điều chỉnh mẫu âm thanh thế nào.
Thế thì tại sao lại có thể bỏ, hoặc giữ? Vì theo lí thuyết tai con người sẽ rất khó nhận ra sự hiện diện của 1 tần số âm thanh nhất định nào đó (có thể là quá 20Khz). Việc bỏ đi 1 phần dữ liệu âm thanh này giúp cho các định dạng âm thanh mất dự liệu như Mp3 có thể giảm dữ liệu cần thiết để diễn tả 1 lần lấy mẫu (sẽ ít hơn rất nhiều so với 16bit cho 44100 lần 1 giây như của âm thanh gốc).
Ngoài ra các định dạng âm thanh này còn tạo ra những âm thanh giả nhằm đắp vào những phần nó đã loại bỏ, điều này là thực sự không thể chấp nhận đc, nó tạo ra những âm thanh ta hay gọi là "éo éo" hoặc vang hoặc méo hẳn so với âm chuẩn, đ/v những file đc nén với bitrate càng thấp thì hiện tượng này xảy ra càng nhiều (ví dụ điển hình nhất: bạn hãy nghe thử 1 đoạn khán giả vỗ tay của 1 file mp3 và 1 track trong CD gốc hoặc 1 file nén không mất dữ liệu (lossless) sẽ ngay lập tức nhận ra. Vì sao tiếng vỗ tay lại gây ra nhiều vấn đề như vậy ?
Bởi vì tiếng vỗ tay là 1 âm thanh hỗn hợp ngẫu nhiên, nếu trong âm thanh chuẩn gốc nó sẽ đc diễn ta đầy đủ, thế nhưng với âm thanh nén, định dạng nén buộc phải "ép" bitrate của mình vào khoảng cho phép do đó nó tạo ra những âm thanh vỗ tay đều đều nhau rất ít sự khác biệt hoặc bị hiệu ứng vang).
Chúng ta thường thấy rằng MP3 hay được nén với bitrate là 128, hoặc 192, hoặc 320 kilobit 1 giây (kbps) . Bạn có thể nhận thấy rằng nó chỉ bằng 1/10 so với biterate của WAV (1411kbps) đó là lí do tại sao 1 phút nhạc MP3 128kbps chỉ tốn khoảng 1Mb.
Đúng là trong 1 số trường hợp nhất định, hoặc 1 dạng âm thanh/nhạc nào đó, sẽ rất khó phân biệt sự khác nhau giữa âm thanh gốc và MP3. Bên cạnh đó các thuật toán nén của các định nhạc mất dữ liệu đã được cải thiện rất nhiều. Thế nhưng không có gì hoàn hảo, và chắc chắn cái gì đã mất đi thì sẽ làm cho nó hỏng đi. Đặc biệt là âm thanh.
Đối với những album nhạc như vocal, nhạc cụ, hay đặc biệt là cổ điển thì đây là 1 tai họa, vì với những album nhạc này, thường những nhạc cụ được sử dụng hoặc giọng hát có tần số âm thanh rất cao hay rất trầm do đó rất nhiều dự liệu đã bị loại bỏ hoặc điều chỉnh khác đi so với thực tế.
MP3, âm thanh nén, nhiều người cho rằng chỉ thích hợp với nhạc pop hoặc các dạng nhạc bình thường khác.
Lossless Compression (Nén không mất dữ liệu)
Trong công việc hàng ngày với coputer, hẳn không ít lần bạn đã nén 1 file tài liệu gửi cho đồng nghiệp. Có thể bạn đã sử dụng Zip hoặc Rar làm định dạng nén.
File tài liệu được bạn nén sau khi qua Zip hoặc Rar sẽ trở nên nhỏ hơn rất nhiều nhưng khi người nhận nhận được file, họ sẽ giải nén và có được file tài liệu gốc mà bạn đã tạo. Vậy Zip và Rar đã làm gì ? Nói đơn giản, đó là những thuật toán nhằm tìm ra những quy luật lặp của dữ liệu từ đó tìm 1 cách hiển thị khác tối ưu hơn, tốn ít dữ liệu hơn. (ví dụ ta có chuỗi: aaaaa bbbbbbb aaa 11111 , bạn thấy rằng cách diễn giải tốt hơn nhiều mà tốn ít chữ hơn là ax5 bx7 ax3 1x5). Đấy là 1 ví dụ rất đơn giản để bạn hiểu, còn thì nó phức tạp hơn rất nhiều .
Như vậy khi người nhận nhận file và giải nén, Zip và Rar đóng nhiệm vụ sử dụng những chuỗi dữ liệu nén đấy tập hợp và tạo lại file gốc ban đầu.
Đó cũng là mục đích của định dạng âm thanh nén không mất dữ liệu (lossess). Với cấu trúc trên của zip hoặc rar thì bạn có thể thấy rõ rằng đối với lossless audio, nó lấy đầu vào là âm thanh gốc của CD, cố gắng tìm ra những quy luật âm thanh và nén nó lại. Việc nén lại này là không cao vì dữ liệu âm thanh rất đa dạng và sử dụng nhiều dữ liệu. Hiện tại mức độ nén cao nhất có thể của kĩ thuật nén không mất dữ liệu là bằng khoảng 1/3 dung lượng gốc của âm thanh gốc. Do đó mỗi album lossless sẽ có dung lượng khoảng 200 đến 300 Mb.
Khi giải nén hoặc khi nghe lossless điều chắc chắn ta đạt được đó chính là tín hiệu gốc của âm thanh CD (44.1Khz, 16bit, 1411Kbps) . Điều này là cứu nhân cho mọi người yêu âm nhạc luôn đòi hỏi âm thanh trung thực nhưng không có điều kiện có CD gốc hoặc muốn sử dụng computer làm nơi lưu trữ albums.
Hoạt động của việc ghi CD nhạc:
Như đã đề cập, định dạng âm thanh của CD là PCM 1411kbps. Và đầu vào của nó cũng phải ở định dạng PCM 1411kbps. Do đó khi ta ghi 1 CD nhạc việc đầu tiên của 1 trình ghi đĩa là nó phải convert (chuyển) bất kì định dạng cho vào ra WAV, bất kể nó là mp3 hay ape, lossy hay lossless. Đó là lí do vì sao mà ngoài mp3 thường được hỗ trợ sẵn, đối với các định dạng âm thanh khác ta phải cần plugin cho trình ghi đĩa mới có thể ghi được.
Như thế bất kì định dạng nhập vào là gì trước khi ghi ra đĩa ta sẽ có 1 dữ liệu âm thanh định dạng WAV, mà WAV thì luôn là PCM 1411kbps. Cho nên dù dữ liệu vào "xấu" hay "đẹp" nó cũng sẽ được cho mặc 1 cái áo được dệt bởi 1411 kí sợi để ghi ra CD. Tại sao cùng 1 album, ta có 2 định dạng mp3 và ape , mp3 chỉ 50Mb, ape đến 200Mb mà ghi ra đĩa vẫn đầy, vẫn cùng ngần đấy phút nhạc ? đã có câu trả lời tại sao.
Hoạt động của việc nén CD nhạc:
Như vậy sau khi ghi ra CD 1 rổ dữ liệu "xấu" đấy, nếu bạn sử dụng nó để đọc trong máy sẽ vẫn thấy rằng bitrate của nó là 1411kbps . Tiếp theo nếu bạn sữ dụng software để rip CD này và xác định bitrate là 320 hay cao hơn đi nữa thì nó sẽ vẫn thực hiện công việc nén 1411kbps dữ liệu "xấu" đấy trở thành 320. Nhưng cũng phải nói thêm rằng dù nén 320kbps nhưng đữ liệu "xấu" của bạn sẽ càng trở nến xấu hơn vì chính trong lúc nén ở 320kbps, nó sẽ tiếp tục bị mất tiếp dữ liệu . Đã xấu lại càng xấu .
Vậy theo lí thuyết bài trước, để giữ nguyên độ "xấu" gốc bạn chỉ có cách nén ở định dạng lossless không mất dữ liệu ... "xấu".
Phần lớn, hay ko muốn nói là tất cả những đĩa nhạc copy (cả nhạc Việt lẫn nhạc ngoại) mà ta thấy ngoài tiệm đều là ghi ra đĩa với nguồn là MP3 trong . Bạn có rip với bất kì định dạng nào thì chất lượng vẫn là hàng phế phẩm, không nói gì chất lượng CD, mà chất lượng âm thanh không thể nào bằng đĩa gốc.
Vậy với lossless nó sẽ thế nào ? Cũng vẫn thế, nhưng khi APE được trình ghi đĩa giải nén ra WAV ta sẽ có lại dữ liệu đẹp ban đầu ở 1411kbps, tạo ra 1 đĩa CD chuẩn ở 1411kbps, rồi ta lại rip lossless, rồi lại ghi ra. Cho dù bao nhiêu lần đi nữa thì dữ liệu vẫn (có thể) được giữ nguyên. tôi nói có thể là vì nó còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng CD, chất lượng đầu đọc, 2 thứ đấy có đảm bảo được cho sự an toàn, hoàn chỉnh của dữ liệu khi ghi và đọc hay không. Vì thế mà người ta luôn nói là với CD thì phải là TDK, ổ đĩa thì phải là Plextor, hơn nữa khi ghi hay đọc thì chỉ ở tốc độ 1x , vâng 1x , như thế mới giảm thiểu tối đa số lỗi đọc ghi.
Công nghệ ghi đĩa và loại đĩa được sử dụng là rất quan trọng do đó đĩa hiệu mới đắt như vậy. Ngoài ra còn có đủ loại đĩa dành cho dân audiophile như đĩa vàng, đĩa thủy tinh. Công nghệ thì có XRCD, DCC, Chesky, MFSL ,... rất rất nhiều. Sự khác nhau của họ là cách thức xử lý tín hiệu gốc đạt đến độ hoàn chỉnh, sau đó sử dụng công nghệ máy móc đc fát triển riêng để ghi lên đĩa đặc hiệu, máy ghi đĩa luôn đảm bảo rằng không có lỗi xảy ra, dữ liệu không bi nhiễu, và khi ghi lên bề mặt đĩa đạt đc hiệu quả tối ưu.
( nguồn Internet )
Để hiểu rõ thêm về thể loại nhạc lossless sau đây mình xin đưa thêm một số khái niệm về các thể loại, các chuẩn âm thanh khác để các bạn cùng tham khảo:
Dolby Digital 5.1 là gì?
Được giới thiệu vào năm 1992 trong phim Batman Returns, sau đó được sử dụng ở hàng ngàn bộ phim trên thế giới. Dolby Digital là phát minh mới nhất của Dolby Laboratories, nổi tiếng trong lĩch vực xử lý âm thanh.
Chúng ta hãy xem qua quá trình phát triển của bộ lọc âm thanh Dolby. Đầu tiên là Dolby A-type được áp dụng bộ lọc âm thanh trong phòng thu chuyên nghiệp vào những năm 1970 và Dolby B-type trong những máy nghe nhạc trên thị trường. Vào cuối những năm 70, Dolby cho ra đời bộ lọc Dolby Stereo để xử lý âm thanh cho các rạp chiếu phim. Lúc đó Dolby Stereo có 4 kênh: 2 kênh phải trái cho nhạc, 1 kênh center cho lời thoại và 1 kênh surround cho các hiệu quả âm thanh tiếng động khác. Trong những năm 80, công nghệ phòng thu và các rạp chiếu phim bắt đầu sử dụng Dolby SR (Spectral Recording), một công nghệ tiên tiến hơn hẳn với các âm thanh được trộn ngay từ khi thu, sau đó tạo hiệu ứng không gian. Cuối những năm 80 đầu 90, công ty Dolby bắt đầu áp dụng công nghệ Dolby Surround và sau đó là Dolby Pro Logic vào các hệ thống giải trí trong gia đình (home theater system) sử dụng băng video và đĩa laser, với 4 kênh âm thanh như ở trong rạp chiếu phim vậy. Cho đến nay Dolby Digital mang đến cho bạn 6 kênh âm thanh: 2 kênh phải trái, một kênh center, hai kênh surround phải trái và một kênh cho âm thanh tần số thấp subwoofer. Vì vậy còn được gọi là Dolby Digital 5.1
Các bộ lọc âm thanh của Dolby từ hơn 30 năm đều hoạt động bằng cách làm giảm nhiễu âm thanh tới mức thấp nhất khi không có tín hiệu âm thanh và làm tăng khoảng cách giữa âm thanh được thu và nhiễu âm thanh tới mức có thể khiến cho tai người nghe không nghe thấy nhiễu.
Khi chuyển từ công nghệ thu thanh thường sang kỹ thuật số, âm thanh sau khi được chứa trong những file quá lớn, một đĩa CD chỉ cho 70 phút âm nhạc, công ty Dolby đã phát triển cách số hóa âm thanh mới (digital audio coding). AC-3 là tên gọi của công nghệ này đời thứ ba cho phép số hóa (coding) âm thanh với tần số thấp hơn (lower sample rate) nhưng vẫn bảo đảm được chất lượng âm thanh. Vì vậy dung lượng các file âm thanh AC-3 giảm thiểu đáng kể. Ngoài ra công nghệ này còn hỗ trợ giảm nhiễu âm thanh hiệu quả hơn hẳn bằng cách chia âm thanh ra các dải tần nhỏ khác nhau sau đó mới lọc nhiễu từng phần.
Dolby Digital và công nghệ mã hóa âm thanh AC-3 được sửng dụng rộng rãi và trở thành không thể thiếu được trong các máy giải trí gia đình, DVD và HDTV. Dolby Digital trở nên không thể thiếu được trên đĩa phim DVD-Video và được thấy thường xuyên trên đĩa DVD-Audio. Hầu hết các đầu thu & AV Preamp có khả năng giải mã Dolby Digital. Ưu điểm chính của Dolby Digital chính là nó có thể “khít chặt” ở nơi mà âm thanh surround chưa nén không tới được. Một trong các chỗ này là trên một vài vệ tinh TV truyền đại chúng. Bạn cần một đầu thu vệ tinh kỹ thuật số DSS - Dolby Digital, nhưng nó thích hợp cho việc xem phim từ đĩa hơn. Những người say mê âm nhạc biện luận rằng bộ nén 12:1 trên Dolby Digital ít nhiều làm mất chất lượng âm thanh khi so sánh với định dạng âm thanh surround khác như DTS.
Âm thanh Quadrophonic là gì?
Nếu bạn là người điềm tĩnh vào những năm 70, bạn sẽ thích có một hệ thống truyền hình với 4 kênh âm thanh. Nhưng công nghệ này không được phát triển vì chi phí sử dụng quá cao, nhiều mẫu âm thanh đã được thu với 4 kênh trong suốt những năm 70. Hiện nay, một phần trong số đó đã xuất hiện trên các đĩa CD-DTS, cũng như các đĩa SACD hay DVD-Audio.
Ambisonics là gì?
Một hệ thống hoạt động tốt hơn Quadraphonic và vẫn còn được sử dụng gọi là Ambisonics. Một nhóm ở Anh đã phát minh ra nó vào cuối thời của Quadraphonic những năm 70. Nguyên tắc cơ bản của Ambisonics là nắm giữ & tạo ra một trường âm thanh trong khoảng cách hiệu quả nhất, chuyển nó với một số kênh & chạy lại nó với một số loa mà bạn có thể xếp đặt một cách hợp lý trong phòng của bạn. Việc thu Ambisonic, tiên phong bởi các công ty như là Nimbus Records, sử dụng một microphone đặc biệt gọi là micro trường âm thanh, hay bộ trộn đa vòng với bộ kiểm soát Ambisonic. 4 kênh cần thiết để truyền tải thông tin, bao gồm chiều cao (và nó có thể sử dụng một hệ thống ma trận – xem phần sau – gọi là UHJ để tạo âm thanh nổi tương thích). Một bộ giải mã trong đầu thu giải mã các tín hiệu để tương thích với bố cục loa của bạn. Ngày nay, Ambisonics là kỹ thuật số hoàn toàn và thật sự chi tiết kỹ thuật của DVD-Audio bao gồm sự dự phòng cho việc turyền tín hiệu. Việc thu Ambisonic có thể được giải mã dễ dàng đối với hệ thống loa 5.1 & một vài nhà sản xuất có bao gồm dự phòng này trong đầu thu & preamp của họ. Kỹ thuật âm thanh nổi 3 loa “trường tam” cũng được bắt nguồn từ Ambisonics. Nhiều việc thu DVD sử dụng kỹ thuật Ambisonics, nhưng được giải mã trong phòng thu cho thích hợp với hệ thống chơi lại 5.1. Vì thế bạn có thể không nhận biết được hệ thống đã sử dụng, ngoại trừ lưu ý rằng sự định vị surround rất tốt & âm thanh surround thật hơn nhiều so với những bản thu hiện nay mà bạn tìm thấy thông thường.
Ma trận Surround là gì?
Như mấy năm trước đây, hệ thống âm thanh kỹ thuật số đa kênh surround phải được nén vào 2 kênh cho tương thích với những chương trình truyền thanh & đĩa nhạc âm . Cách này gây mất chất lượng của âm thanh gốc, nhưng vì chỉ một số ít người hiện nay có đầu thu băng & đầu thu đĩa 4 kênh, đa số chỉ sử dụng các máy phát stereo nên đó là cách tốt nhất có thể làm được. Quá trình nén 4 hay nhiều kênh hơn được chia làm hai, sau đó thử cài trở lại vào cuối lúc thu gọi là “lập ma trận” & hệ thống đó gọi là hệ thống “Ma trận Surround”. Dolby, bởi vì sự nổi bật của nó trong thế giới phim ảnh, đã trở thành người đứng đầu với ma trận Dolby Pro Logic và hiện nay là Pro Logic II.
Nhiều chương trình truyền thông trên TV thường được truyền tải trong surround mà sử dụng hệ thống này, và nếu bạn chuyển đầu thu của bạn thành “Pro Logic” hay “Pro Logic II”, bạn có thể sẽ nghe âm thanh surround. Bộ giải mã trong đầu thu hay preamp của bạn sẽ cũng sẽ làm công việc tạo ra hiệu ứng surround từ âm thanh stereo bình thường, mặc dù một số cái có chế độ “Âm thanh siêu nổi” đặc biệt có thể làm tốt hơn trong một vài trường hợp.
Pro Logic II là nâng cấp của Dolby Pro Logic cũ. Pro Logic II có thể thêm vào các thông tin có ý nghĩa đến các loa phía sau của bạn, cái mà thêm vào thật sự để xem TV vệ tinh, cáp kỹ thuật số, chơi video game, xem phim từ một VCR và nhiều nữa.
Bất kỳ một đầu thu nào tốt đều có định dạng surround ma trận. Hầu hết chúng có Dolby Pro Logic II. Hãy test kỹ trước khi quyết định. Trong thực tế, nhiều chương trình cần một sự giúp đỡ nhỏ. Mộ đầu thu hay preamp tốt có thể làm được điều đó.
Thế nào là THX?
THX là bản quyền chứng nhận chính thức (tiêu chuẩn) trên thế giới về chất lượng âm thanh và hình ảnh của các rạp hát, rạp chiếu phim và các công cụ giải trí gia đình (home theater system). Các máy nghe nhạc và xem phim chỉ được cấp chứng nhận THX khi đạt được:
1. Độ nhiễu âm thanh thấp,
2. Độ cách âm tốt, thí dụ bạn xem phim action với các hiệu quả âm thanh dữ dội, nhưng ở ngoài phòng chiếu phim thì không nghe thấy gì hết.
3. Độ vang vọng của âm thanh (reverb) đúng theo tiêu chuẩn quy định. Các phòng chiếu và nhà hát phải được thiết kế chống gây tiếng vang không cần thiết.
4. Phần âm thanh lời thoại phải dễ nghe.
5. Âm thanh có tần số cao được nghe rõ và trong suốt.
6. Âm thanh trầm không gây cộng hưởng ở xung quanh.
7. Nhà hát hay phòng chiếu phim phải được thiết kế sao cho khán giả ngồi ở bất cứ chỗ nào cũng nghe được âm thanh stereo.
Để đạt được điều này, người ta phải sử dụng các máy điện tử chất lượng cao đã được kiểm tra và có chứng chỉ THX. Chúng bao gồm từ am-pli, music processors, hệ thống loa, màn hình và các dụng cụ khác. Hầu hết các máy đạt được chứng chỉ này đều sử dụng bộ lọc âm thanh của Dolby, vì vậy nhiều khi người ta hay nhầm lẫn THX với Dolby. THX không cạnh tranh với Dolby, THX là chứng chỉ chất lượng cho những sản phẩm của Dolby và các hãng khác trong công nghệ xử lý âm thanh. Một số dàn máy nghe nhạc cao cấp dùng trong gia đình cũng đạt được chứng chỉ THX.
Dolby Digital Surround EX?
Sự phát triển tiếp theo của Dolby Digital hợp với chuẩn THX, tạo ra không gian âm thanh rộng hơn bằng cách tạo thêm một kênh âm thanh surround trung tâm (rear center channel)
Dolby Surround Pro Logic?
Đó là bộ giả lập âm thanh surround 5.1 trên cơ sở hai kênh stereo thông thường. Có hai loại Dolby Pro Logic II Movie tạo hiệu ứng không gian cho âm thanh stereo để hấp dẫn người xem, Dolby Pro Logic II Music để tăng cường âm thanh ba chiều khi nghe nhạc.
Khái niệm về DTS?
DTS là viết tắt tên công ty Digital Theater Systems Inc., chuyên về công nghệ âm thanh kỹ thuật số. Bộ giải mã DTS của công ty là một trong những bộ giải mã hàng đầu trong công nghệ âm thanh surround kỹ thuật số 5.1. Có đến hơn 200 triệu bản quyền sử dụng bộ giải mã DTS 5.1 của công ty đang dược sử dụng trong các sản phẩm giải trí điện tử trên thế giới, công nghệ này cũng được sử dụng trên 20,000 rạp chiếu phim KTS. Công ty được thành lập năm 1993, trụ sở chính tại Agoura Hills, California, các văn phòng đại diện ở Anh, Nhật và Trung Quốc.
DTS Digital Surround (nhiều khi viết tắt DTS 5.1) là gì?
Đó là công nghệ mã/giải mã âm thanh surround 5.1 với chất lượng 20-bit, tốt nhất hiện nay trên thế giới của công ty DTS. Công nghệ này mã hóa 6 kênh 20-bit audio (5.1) với dung lượng mà ngày xưa người ta dùng để lưu trữ có 2 kênh 16-bit audio PCM. Chất lượng âm thanh trên mỗi kênh trong 6 kênh này vượt xa chất lượng âm thanh 16-bit trên đĩa CD thông thường.
So sánh DTS Digital Surround với Dolby Digital (AC-3)?
So với công nghệ AC-3 của Dolby, công nghệ DTS cho đĩa laser, CD và DVD sử dụng tỉ số nén ít hơn ¼, cho chất lượng âm thanh tốt hơn. Cho đĩa laser, DTS lưu trữ âm thanh số trên 6 kênh riêng biệt, trong khi Dolby Digital, muốn giữ sự tương thích với các máy phát stereo thường, nên mã hóa toàn bộ 6 kênh trên có vào một kênh analog, giữ nguyên hai kênh stereo PCM thông thường, vì vậy muốn nghe được 6 kênh, máy phát phải có thêm bộ giải mã. DTS cũng truyển tải dữ liệu nhanh hơn so với Dolby Digital AC-3.
DTS-ES Matrix 6.1?
Có các kênh âm thanh tương tự như Dolby Digital surround EX, song âm thanh surround được cải thiện hơn, chiều sâu phía sau và không gian tốt hơn.
DTS ES Discrete 6.1?
Là âm thanh được mã 6.1 thực thụ (âm thanh được thu thật với 7 kênh, khác với DTS-ES Matrix 6.1 kênh thứ 7 ở trung tâm phía sau được tái tạo từ các kênh còn lại). Định dạng này chỉ tồn tại ở một số đĩa phim DVD.
DTS Neo 6?
Là đối thủ trực tiếp của Dolby Pro-Logic II. Neo 6 Cinema được dùng để xem phim còn Neo 6 Music để nghe nhạc, khi đó kênh center ít được sử dụng để tăng hiểu quả không gian stereo.
Thế nào là THX EX (7.1)?
Nếu bạn có đĩa & preamp có thể chạy 7.1, bạn có thể thêm nhiều loa hơn vào hệ thống của bạn để cải thiện hệ thống của bạn trong việc giải quyết hiệu ứng surround chi tiết & phức tạp của phim hiện đại. THX EX giống như DTS ES, ngoại trừ phim “Chiến tranh giữa các vì sao”, người ta đang gặp nguy khốn vì không xác định rõ các phim trên trong dạng thức. Nhiều khách hàng nhiệt tình yêu cầu cả hai tính năng 6.1 & 7.1 cho thiết bị của họ.
Đầu đọc và đĩa SACD
Sau một thời gian khá dài không có sự đột phá lớn trong công nghệ ghi âm, sự ra đời của SACD là một hiện tượng được nhiều fan âm nhạc quan tâm. Định dạng phần mềm mới này có độ trung thực cao, thu hút nhiều thính giả trên thị trường băng đĩa nhạc.
SACD là một hỗ trợ âm nhạc độ phân giải cao cho đĩa CD (12 cm). Được áp dụng công nghệ mã hoá số do Sony và Philips phát triển dưới dạng âm thanh stereo 2 kênh, hoặc đa kênh vượt trội hơn nhiều so với đĩa CD hay HDC thông thường.
Thuật ngữ DSD - viết tắt của tiếng Anh Direct Stream Digital - là tên gọi của hệ thống mã hoá cho phép lưu trữ các thông tin âm nhạc lên đĩa SACD. Nếu như giải tần của đĩa CD chỉ giới hạn ở 22 KHz và giải động chỉ giới hạn không quá 96 db thì DSD với tần số lấy mẫu lớn gấp 64 lần so với CD. SACD sẽ có đáp tuyến tần số lên tới 100 KHz và dải động lên tới 120 dB.
Sự phát triển của SACD là nhằm đáp ứng nhu cầu của âm thanh chuyên nghiệp và đôi tai khó tính của dân mê âm thanh. Để khai thác triệt để những ưu việt, trước hết là về mặt kỹ thuật bạn cần phải có một đầu đọc SACD thật tốt (không đơn giản chỉ là một đầu DVD đa năng đọc được SACD) và một dàn âm thanh có chất lượng cao tương thích. Hệ thống này bao gồm pre-ampli và power ampli và bộ loa đáp ứng dải tần rộng.
Theo kinh nghiệm của nhiều người chơi âm thanh và về mặt logic mà nói, SACD có chất lượng âm thanh cao hơn so với CD. Đĩa SACD (Super Audio Compact Disc) được phát triển trên công nghệ gọi là Direct Stream Digital (DSD). Phương pháp này tạo ra tốc độ lấy mẫu cao tới 2,8 triệu lần/giây, cao gấp 4 lần so với mẫu ở CD, do đó nâng cao chất lượng âm thanh và giảm thiểu nhiễu một cách đáng kể. Hầu hết các đĩa SACD có 2 lớp, một lớp dành cho SACD và một cho CD (đọc được trên các đầu CD thường).
Nguồn: http://www.tamtay.vn/group/forum/topic/54368/605348
*** Thiên Bồng Nguyên Soái ***
http://vnav.vn/forum/viewtopic.php?f=44&t=65622&start=25
Em mài kỹ hơn chút về cái vụ SACD
Sony và Philips đưa ra định dạng ghi âm mới, Super Audio Compact Disk (SACD) vào năm 2001 (?), tức hai thập niên sau khi CD ra đời.
Sau 20 năm âm thanh CD được coi là trung thực nhất, thì bị soán ngôi.
Sony không dùng nhiều ngôn từ để diễn tả. Sau khi một quan chức của Sony Singapore lần lượt phát CD và SACD trong vài phút, mọi người đều có chung một nhận xét: SACD không chỉ giúp cảm nhận các mức độ âm thanh mà còn khiến ta phải rung động theo
Âm thanh của SACD tốt hơn nhiều so với âm thanh của CD trong tình trạng tốt nhất.
SACD tái tạo âm thanh trung thực hơn nhờ ghi âm theo kỹ thuật tương tự, âm thanh không bị nén và lọc.
Nó diễn tả rõ ràng chất giọng người hát, kể cả những chỗ chuyển điệu tinh tế nhất khi ca sĩ xúc động; hay tiếng nhỏ dần của piano và violon.
SACD hơn hẳn CD
SACD trông giống như đĩa CD truyền thống. Loại đĩa lai hai lớp sẽ có một lớp ghi theo tiêu chuẩn CD truyền thống 16 bit/44,1kHz, nên tương thích được với máy phát CD thông thường.
Lớp thứ hai có mật độ cao, chỉ có thể đọc được trên máy phát đĩa SACD, cho âm thanh chất lượng tuyệt hảo trong chế độ hai kênh (stereo) và đa kênh (6 kênh hoặc surround) với đáp ứng tần số lên đến 100kHz và dải động rộng hơn 120dB. Cũng có thể dùng lớp mật độ cao này để lưu trữ văn bản, đồ họa, các thông tin video, cho phép vừa trình diễn đa phương tiện vừa phát nhạc.
Tính năng bảo mật của đĩa SACD cũng mạnh hơn CD. TỪ KHI RA ĐỜI ĐẾN NAY, CHƯA AI BẺ GÃY ĐƯỢC MÃ KHÓA CỦA SACD.
Hệ thống quản lý bản quyền chủ động của SACD sử dụng kết hợp cả hai loại dấu vạch mờ dạng số: vạch nhìn thấy và vạch không nhìn thấy. Nhiều kẻ ăn cắp bản quyền CD đã phải nản lòng. Đĩa SACD 2 lớp có khả năng lưu trữ 140 phút âm thanh, gấp đôi thời gian CD thông thường. Rất có thể nó sẽ trở thành một phương tiện lưu trữ chuẩn trong tương lai.
Phải mua thôi
Trái tim của SACD là công nghệ mã hóa số theo dòng trực tiếp (Direct Stream Digital – DSD) – biểu diễn sóng âm thanh theo giá trị 1 bit với tần số lấy mẫu 2,8224 MHz – làm cho SACD đạt được chất lượng âm thanh cao chưa từng có.
Format được dùng trong CD là công nghệ biến điệu mã xung (Pulse Code Modulation – PCM), sử dụng một bộ lọc thật dốc để ngăn các tần số cao hơn 20 kHz, nên tính trung thực của âm thanh phát lại bị giới hạn.
Công nghệ DSD loại bỏ hết các bộ lọc và thực hiện ghi trực tiếp âm thanh. Nói cách khác, DSD không hạn chế dải động, cũng không đánh mất những tín hiệu âm thanh tinh tế - là yêu cầu tối quan trọng của quá trình tái tạo âm thanh. Tóm lại, công nghệ DSD có thể ghi nhận đầy đủ mọi cung bậc của các nguồn âm thanh tương tự ngày nay.
Ngoài Sony và Philips, nhiều hãng khác cũng tham gia vào hàng ngũ những người chế tạo máy chơi đĩa SACD, như hãng Marantz, Accuphase, Denon, Kenwood, Aiwa, và Sharp. Máy SACD vừa chơi được đĩa SACD vừa chơi được đĩa CD truyền thống.
(Nguồn: Internet)
Sony và Philips đưa ra định dạng ghi âm mới, Super Audio Compact Disk (SACD) vào năm 2001 (?), tức hai thập niên sau khi CD ra đời.
Sau 20 năm âm thanh CD được coi là trung thực nhất, thì bị soán ngôi.
Sony không dùng nhiều ngôn từ để diễn tả. Sau khi một quan chức của Sony Singapore lần lượt phát CD và SACD trong vài phút, mọi người đều có chung một nhận xét: SACD không chỉ giúp cảm nhận các mức độ âm thanh mà còn khiến ta phải rung động theo
Âm thanh của SACD tốt hơn nhiều so với âm thanh của CD trong tình trạng tốt nhất.
SACD tái tạo âm thanh trung thực hơn nhờ ghi âm theo kỹ thuật tương tự, âm thanh không bị nén và lọc.
Nó diễn tả rõ ràng chất giọng người hát, kể cả những chỗ chuyển điệu tinh tế nhất khi ca sĩ xúc động; hay tiếng nhỏ dần của piano và violon.
SACD hơn hẳn CD
SACD trông giống như đĩa CD truyền thống. Loại đĩa lai hai lớp sẽ có một lớp ghi theo tiêu chuẩn CD truyền thống 16 bit/44,1kHz, nên tương thích được với máy phát CD thông thường.
Lớp thứ hai có mật độ cao, chỉ có thể đọc được trên máy phát đĩa SACD, cho âm thanh chất lượng tuyệt hảo trong chế độ hai kênh (stereo) và đa kênh (6 kênh hoặc surround) với đáp ứng tần số lên đến 100kHz và dải động rộng hơn 120dB. Cũng có thể dùng lớp mật độ cao này để lưu trữ văn bản, đồ họa, các thông tin video, cho phép vừa trình diễn đa phương tiện vừa phát nhạc.
Tính năng bảo mật của đĩa SACD cũng mạnh hơn CD. TỪ KHI RA ĐỜI ĐẾN NAY, CHƯA AI BẺ GÃY ĐƯỢC MÃ KHÓA CỦA SACD.
Hệ thống quản lý bản quyền chủ động của SACD sử dụng kết hợp cả hai loại dấu vạch mờ dạng số: vạch nhìn thấy và vạch không nhìn thấy. Nhiều kẻ ăn cắp bản quyền CD đã phải nản lòng. Đĩa SACD 2 lớp có khả năng lưu trữ 140 phút âm thanh, gấp đôi thời gian CD thông thường. Rất có thể nó sẽ trở thành một phương tiện lưu trữ chuẩn trong tương lai.
Phải mua thôi
Trái tim của SACD là công nghệ mã hóa số theo dòng trực tiếp (Direct Stream Digital – DSD) – biểu diễn sóng âm thanh theo giá trị 1 bit với tần số lấy mẫu 2,8224 MHz – làm cho SACD đạt được chất lượng âm thanh cao chưa từng có.
Format được dùng trong CD là công nghệ biến điệu mã xung (Pulse Code Modulation – PCM), sử dụng một bộ lọc thật dốc để ngăn các tần số cao hơn 20 kHz, nên tính trung thực của âm thanh phát lại bị giới hạn.
Công nghệ DSD loại bỏ hết các bộ lọc và thực hiện ghi trực tiếp âm thanh. Nói cách khác, DSD không hạn chế dải động, cũng không đánh mất những tín hiệu âm thanh tinh tế - là yêu cầu tối quan trọng của quá trình tái tạo âm thanh. Tóm lại, công nghệ DSD có thể ghi nhận đầy đủ mọi cung bậc của các nguồn âm thanh tương tự ngày nay.
Ngoài Sony và Philips, nhiều hãng khác cũng tham gia vào hàng ngũ những người chế tạo máy chơi đĩa SACD, như hãng Marantz, Accuphase, Denon, Kenwood, Aiwa, và Sharp. Máy SACD vừa chơi được đĩa SACD vừa chơi được đĩa CD truyền thống.
(Nguồn: Internet)
*** Thiên Bồng Nguyên Soái ***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét