Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

CHỮ "đá" NGHĨA


 

Ngưỡng mộ

Từ điển tiếng Việt giải thích rằng: ngưỡng mộ là “khâm phục, tôn kính, lấy làm gương để noi theo”.

Ngưỡng mộ được ghép từ hai từ Hán Việt. Ngưỡng: ngước lên. Mộ: yêu mến.

Nhưng chớ có tươm tướp mà sướng cái bụng khi được ai đó nói rằng họ “ngưỡng mộ” bạn. Trong ngữ cảnh này, coi chừng bạn bị trù ẻo… chết đó. Ngưỡng: thấy. Mộ: mồ. Vậy, “ngưỡng mộ” còn là “thấy nấm mồ” của bạn đó!

Bởi lẽ đó, mình là người Việt thì chỉ nên xài ngôn ngữ Việt. Nếu cảm thấy “khoái” Kiến MZ thì cứ việc nói là mình “khoái”. Xin đừng bao giờ “ngưỡng mộ” Kiến MZ nhé!

KIẾN MZ bình "loạn"

 

 

Đa tạ

Khi cảm ơn nhau một cách trang trọng, người ta thường dùng chữ “Đa tạ!”. Đó là một từ Hán Việt, mà “đa” là nhiều, “tạ” là cảm ơn. Vậy “đa tạ” là “cảm ơn nhiều lắm”. Nó tương tự như trong tiếng Anh, ta nói: “Thank you very much”.

Nhưng cái mà, Kiến MZ là người Việt gốc… tràm. “Tạ” được người Việt dùng để chỉ trọng lượng “100kg”. Bởi vậy, trong bụng vẫn khoái “đa tấn” hơn “đa tạ”.

Mổ xẻ cái từ “đa tạ”, Kiến MZ ngộ ra rằng: phải chăng “đa tạ” xuất phát từ một thực tế cuộc sống là:
Cám ơn phải có cái chi
Cám ơn suông có khác gì... cám heo!


Bởi hai tiếng “cảm ơn” bằng lời nói nhẹ tựa bông gòn, nên biết nói bao nhiêu câu cho nặng đủ một tạ, huống chi tới “nhiều tạ”, người ta bèn nghĩ cách quy đổi tiếng “cảm ơn” thành vật chất có trọng lượng. Cái đó gọi là “quà cáp”. Vì lẽ đó, bây giờ, người ta thường quen cảm ơn một cách rất “nặng tay”. Mức độ của sự “cảm ơn” được đo và tỷ lệ thuận với trọng lượng của quà cáp. Rồi theo sự phát triển của mức sống, cái khái niệm “trọng lượng” và “nặng tay” được hiểu với nghĩa “giá trị”. Tới lúc này, người cảm ơn không gói quà cáp bằng giấy bông giấy hoa nữa mà bằng những chiếc phong bì. “Trọng lượng” của chiếc phong bì đó được định lượng bằng “tổng giá trị thị trường” của những gì chứa trong đó, chớ không chỉ phụ thuộc vào độ dày mỏng.

Minh họa: Internet.

Kiến MZ lòng dặn lòng chớ bao giờ để mình đem lòng mê cái sự "đa tạ". Kiến MZ chỉ bày tỏ với người giúp mình, làm ơn cho mình những lời "cảm ơn" từ tận đáy tim mình.
 
KIẾN MZ bình "loạn"

 

 

Buồn cười

Minh họa: Internet.

Ngạc nhiên chưa ngôn ngữ Việt! Đã buồn mà lại còn cười được. Có mà tưng tửng, man man.

Thật ra, “buồn cười” là cách nói của người miền Bắc tương tự như “mắc cười” ở miền Nam. “Buồn” là mợt cảm giác bứt rứt, ngứa ngáy, cục cựa, muốn thực hiện một hành động nào đó của cơ thể. Người miền Bắc còn dùng từ “buồn” tương tự như “nhột” ở miền Nam.

Nhưng rốt cuộc, buồn thì có thể và có nên cười không? Nên quá đi chớ. Càng buồn gắt, ta càng phải tìm cách để cười cho đã, cho quên đi nỗi buồn. Đó là lý do khi tâm trạng buồn bực, căng thẳng, người ta đi xem phim hài, kịch hài. Chớ nếu đã buồn mà còn đi coi bi kịch nữa thì chắc có nước bị tống tiễn ra… Bình Hưng Hòa!

Coi truyện lịch sử, truyện giang hồ, ta thấy các anh hùng hào kiệt trước khi bị kẻ thù hành quyết thường bật cười hào sảng, cười ha hả, cười bất khuất. Người ta trước khi chết mà còn cười được thì huống hồ chi mình mới chỉ buồn một chút lại không thể cười được.

Đúng là chuyện này buồn cười thiệt hé!

KIẾN MZ bình "loạn"

 

 

"Run" và "rung"
Minh họa: Internet.

Chỉ khác nhau có cái đuôi “g” mà hai chữ “run” và “rung” đã ở hai đầu cách biệt.

Xét về cơ bản, “run” chỉ một phản ứng của động vật, còn “rung” là một trạng thái của “tĩnh vật”. Một con chim run rẩy, một căn nhà rung động.

Trong khi không thể sử dụng “run” cho tĩnh vật, người ta vẫn có thể sử dụng “rung” cho động vật, cụ thể ở đây là con người. Lúc này, “run” là một trạng thái vật lý, còn “rung” là một trạng thái tâm lý. Thân thể run rẩy, tâm hồn rung động. Ngay cả ở cái hành động “rung đùi” cũng là thể hiện cái tâm trạng đắc ý, hả hê. Ở đây ta không thèm bàn tới “rung” với vai trò một tác động đối với một cái gì đó bên ngoài (như rung chuông, rung cây nhát khỉ,…)

Người ta “run” khi cảm thấy bất an, sợ hãi hay thể xác và tinh thần bị suy yếu tới mức kiệt quệ (đói run, lạnh run, già yếu run lẩy bẩy,...). Nói tóm lại, "run" là khi con người bị bất ổn. Còn người ta “rung” lúc cảm xúc trào dâng. Đó là “rung động”, kể cả "rung đùi". Cái nghiệt ngã ở đây cũng tương tự như “chữ tài liền với chữ tai một vần” (Truyện Kiều), “rung động” khi cảm xúc đẹp, lãng mạn, nhưng chỉ cần thêm dấu sắc thành “rúng động” là rơi vào tâm trạng bàng hoàng, kinh sợ.

Thường thì “rung” đi trước, “run” theo sau. Anh chàng đi từ chỗ “rung động” trước một cô gái mới gặp phát triển dần tới chỗ “run rẩy” tỏ tình. Cũng có ông “năm bó”, “sáu bó” dạn dày tình trường chớ hề “run rẩy” khi tỏ tình, nhưng vẫn “run rẩy” trước “cơm” khi xé rào “rung động” với “phở”.

Còn trong trường hợp "run" đi trước thì cầm chắc là do người đó có "tà ý" - tâm bất an, xác rục rịch. Ai biểu chưa chi, mới ngó thấy cô nàng là đã "run rẩy" rồi.

Đó là chuyện tiếng Việt nhà mình. Còn “run” và “rung” trong tiếng Anh hay Anh – Việt đề huề thì sao?

Trong tiếng Anh, “run” là động từ “chạy”, còn “rung” là quá khứ phân từ của động từ “ring” (rung chuông, chuông reo,…). Ta thử kết hợp chúng lại và tán hén. Khi “gấu mẹ vĩ đại” ở nhà, ông anh nhà ta đã phải “run” (tiếng Anh, chạy) mất dép hay “run rẩy” (tiếng Việt) như cầy sấy khi điện thoại “rung” (tiếng Anh, reng chuông) hay “rung” (tiếng Việt, khi bật chế độ “bí mật”) mà nhác thấy người gọi là… “gấu yêu”. Xin nói rõ, ở đây chỉ là tán cho vui, không hề có ý “ám chỉ” quý ông THKT nhà mình ở xứ người nghen. Hồn ai nấy giữ mà!

Ngay cả trong cái thành ngữ "hit and run" nữa. Người Việt mình có thể hiểu "đụng" (hit) rồi "chạy" (run), hay "đụng" rồi "run"; hoặc "hít" ai đó rồi "chạy" hay "hít" mà "run". Hít ở đây có hai nghĩa "hun hít" và "ngửi". (Ừ, xin tạt ngang một chút, có ai "hun" mà hỗng tranh thủ "hít" hay không ta? Thực tế, hun mà không hít thì khó lòng đạt tới cái cảm xúc "rung động", thường là bởi "run rẩy" mà quên béng cái vụ hít).
 
KIẾN MZ bình "loạn"

 

 

Từ "đá lông nheo" tới "bồ đá"

Minh họa: Internet.

Đã có đá banh, đá cầu, đá cá,… thì chớ nên ngạc nhiên khi có “đá lông nheo” – một trong những loại hình “đá người”. Đá lông nheo diễn ra giữa hai người khác phái của hầu hết nhân loại (sở dĩ nói “hầu hết” là vì vẫn còn một thiểu số “xăng pha nhớt” hay người Tây gọi là ladyboy, còn người Thái kêu là kathoey).

Mà cái chuyện “đá mắt” này là cái gien di truyền do ông bà ta từ nhiều đời trước truyền lại cho con cháu à nghen. Từ lâu lâu lắm rồi, văn chương thi phú nhạc họa đều tốn biết bao giấy mực cho cái vụ “liếc mắt đưa tình”.

Ta thử làm một vòng Thi đàn nhé.

Thi sĩ Đinh Hùng say sưa nói nhiều về đôi mắt:
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng...

(Tự tình dưới hoa)

Nuớc buồn cũng bởi mắt em xanh
Hồ biển rưng rưng biếc mấy thành?...

(Nụ cười thương nhớ)

Tôi nhìn cặp mắt trong xanh ấy
Để thấy hồn tôi trong mắt xanh.

(Hương)

Ngay cả nhà thơ “đạo sĩ” Phạm Thiên Thư khi xuống núi cũng phải thốt lên:
Mắt em không chấn song
Mà cầm gian Nhật Nguyệt

(Mắt xanh)

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cho Từ Hải tới tận thanh lâu hỏi Thúy Kiều:
Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?


Bích Khê “máu lửa” hơn khi tả:
Ôi! cặp mắt của người trong tơ ngọc
Sáng như gươm và chấp chóa kim cương!
Mỗi cái ngó là một vì sao mọc!
Mỗi liếc yêu là phảng phất mùi hương.
Hai mắt ấy chói hào quang sáng ngợp
Dẫn hồn ta vào thế giới thiêng liêng.

(Cặp mắt)

Tế Hanh từng dằn dỗi khi bị người trong mộng quăng cục lơ:
Anh tưởng chỉ cần trông thấy thôi
Là em hiểu rõ lòng anh rồi.
Mối tình chan chứa trong đôi mắt,
Anh biết làm sao nói những lời…

(Hờ hững)

Nguyễn Bính thì ám ảnh bởi đôi mắt nhung tới mức tình nguyện làm nô lệ cho nó:
Phải chăng tôi đã yêu rồi?
Hồn xin quỳ dưới mắt người từ đây
Đêm qua buồn quá tôi say
Đã mơ một giấc mơ đầy mắt nhung!

(Mắt nhung)

Không chỉ tương tư màu áo của người ta, Nguyên Sa còn tơ tưởng đôi mắt:
Em tìm âu yếm trong đôi mắt
Thấy cả vô cùng dưới đáy sông

(Em gầy như liễu trong thơ cổ)

Trong khi đó, nhà thơ “con nai vàng ngơ ngác” Lưu Trọng Lư thấy coi mòi lãng mạn chưa chắc cú bèn giở cái chiêu hơi bị “tàn nhẫn” – “móc mắt” người tình làm của riêng:
Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em.

Phép gì khỏi nhớ đừng trông
Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi.

(Đôi mắt)

Không chỉ có các ngài tao nhân mặc khách, dân gian ta cũng có câu ca dao:
Trời sinh con mắt là gương
Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài


Đó đó, khi có tình ý với ai, người ta thường có “ám hiệu” bằng cái nháy mắt, nheo nheo mắt; riêng mấy cô thì khi cảm xúc trào dâng trước người ấy thường cứ chớp chớp mắt lia lịa giống như bị bụi rơi vô mắt. Đó là “đá lông nheo” chớ còn gì. Mà đá nhiều thì trách sao lông nheo không bị rơi rụng.

Nhà thơ Đoàn Thị Tảo viết trong bài thơ “Cho một ngày chị sinh” để tặng chị mình là nhà văn Đoàn Lê (sau này được Trọng Đài phổ nhạc thành bài "Chị tôi"):
Thế là chị ơi
Rụng bông gạo đỏ

Còn ở đây, Kiến MZ học đòi mà cảm thán rằng:
Thế là em ơi
Rụng lông nheo rồi…


Rồi khi đạt tới level “cao cao bên cửa sổ, có hai người… kiss nhau” thì lúc ấy môi chạm môi, mũi quẹt mũi, mắt đụng mắt, lông nheo quện lông nheo lại rụng mất mấy sợi lông nheo nữa. Vậy là người ta càng yêu nhau nhiều, càng bị rụng lông nheo nhiều. Nói theo ngôn ngữ toán học, số lượng lông nheo rụng tỷ lệ thuận với cường độ tình yêu. Hay nói theo ngôn ngữ văn chương, “lông nheo là bằng chứng của tình yêu”. Mà hễ rụng nhiều thì phải cấy bù. Đó là lý do mà các cô đang yêu thường phải đi tới mỹ viện cấy hay gắn lông mi giả.

Giờ sang cái vụ vì sao bồ đá lại đau như bò đá? Chính xác là “đau hơn” chớ hỗng phải “đau như” đâu. Bò đá bất quá là đau cái thể xác bên ngoài, nhất là cái… bàn tọa, chịu khó về dán salonpas mấy bữa là êm. Còn bồ đá thì cú nào trúng phóc ngay tận tim cú đó, biểu sao mà không đau thấu tâm can cho đặng. Bồ đá còn đụng tới cả cái sĩ diện, cái niềm kiêu hãnh của giống đực, vốn tự kiêu là mình là giống chuyên đi chinh phục, sát phạt quần hồng (xin đừng lầm với “quần hùng”).

Nếu xét về mối quan hệ giữa “đá lông nheo” và “bồ đá” thì cái sau là hệ quả của cái trước – một cái kết hỗng phải happy end.
 
KIẾN MZ bình "loạn"

 

 

Chọc, ghẹo, chọc ghẹo, ghẹo chọc
Cả 4 chữ chọc, ghẹo, chọc ghẹo, ghẹo chọc đều mang ý nghĩa “lành mạnh” là đùa vui nhau.

Minh họa: Internet.

Chọc mang ý nghĩa đùa cợt nhau, phá nhau (như nghĩa của từ “trêu” ở miền bắc). “Thằng A bị lũ bạn học chọc hoài về cái tật mít ướt.”

Ghẹo thì ngoài ý nghĩa tương tự như “chọc”, còn có thể mang một nghĩa “romantic” nữa là “tán…gái”. “Bọn con trai Khu Thành Công khoái ghẹo mấy đứa con gái Khu Nhà thờ.” Khi nũng nịu thì cái chữ “ghẹo” được biến âm thành “dẹo”. “Cô ơi, bạn N nó dẹo em kìa.”

Khi kết hợp cả hai chữ “chọc” và “ghẹo” thành “chọc ghẹo” hay “ghẹo chọc”, cường độ của “hành vi” không hề tăng “double” mà ngược lại còn được làm cho mềm đi, nhẹ đi. Nó chung chung hơn. Và “chọc ghẹo” trở thành “trung tính”, không còn mang ý nghĩa “romantic” nữa.

Chọc ghẹo “lành mạnh” phải xuất phát từ cái tâm hướng thiện và dựa trên nền tảng tình thương mến thương nhau. Chọc ghẹo cho nhau vui, tăng thêm tình thân ái, để lại những kỷ niệm mai sau còn nhớ. Chọc ghẹo "lành mạnh" có mục đích duy nhất là cho tất cả đều vui, và làm cho người được chọc ghẹo thêm "đáng yêu" hơn. Dứt khoát đó không phải là kiểu chọc ghẹo khiến cho người khác (cả người bị chọc ghẹo lẫn đệ tam nhân) bị tổn thương và trở nên "đáng thương".

Tất nhiên, phàm thì là mà rằng trên đời này hành động nào cũng phải có liều lượng, giới hạn. Quá đáng thì mất vui, gây mất đoàn kết nội bộ, thậm chí tệ hại nhất là “đôi ngã chia ly”. Quá đáng ở đây có hai lẽ: Một là, quá liều lượng, vượt qua khả năng chịu đựng của người được (hỗng phải bị) chọc ghẹo. Hai là, thiếu ý tứ, mà bà con Nam bộ gọi là “vô duyên… thúi!”

Ngoài ra, cũng hên xui thôi. Cùng một cái tổ ong, nhưng có khi, có người chọc vào chỗ “cát” thì tha hồ nếm mật ngọt; còn có lúc, có kẻ chọc phải chỗ “hung” thì bị đám ong túa ra chích cho tới mức mẹ ruột cũng không còn nhận ra nổi mặt mày thằng con cưng.

Cứ coi các thành viên “năm bó”, “sáu bó” có giác của Từ đường THKT chọc ghẹo nhau thì hiểu ngay mà. Hỗng trách mà có không ít bà con khai thiệt, hễ vô Từ đường là cười đau bụng. Mà cười được thì có nghĩa là lòng vui, tâm trạng thư thái, suy ra sẽ thêm yêu đời, thêm khỏe ra, thêm sống lâu hơn. Mà Từ đường nhà mình hoàn toàn “free” cái khoản thuốc bổ cười này. Ai cần xài bao nhiêu, cứ thoải mái mà lấy, thậm chí lấy nhiều còn được “bonus” nữa.

KIẾN MZ bình "loạn"

 


Bất hiếu

Mùa nắng nóng người ta dễ tìm tới cái món gọi là "bất hiếu". Hỗng lẽ do nóng quá người ta dễ nổi quạu, nổi điên, tới mức cha mình mà cũng "vũ tử" (biến thể từ "vũ phu")? Tội bất hiếu đó đáng để lãnh "cầu đầu trảm".
Còn ở đây, "bất hiếu" đã lắm. Giữa cơn nắng nóng, cháy khát cả cổ mà có một ly đá chanh thì còn gì bằng! Mà "đá chanh" lại là nói lái của "đánh cha". Đánh cha đích thị là bất hiếu rồi còn gì!


Bún Xiêm Lo


Hôm rồi thầy Đỗ Hiền Triết chuyển cho Kiến Bình “loạn” thắc mắc của Người Ngây Thơ về món bún Xiêm Lo mà thầy Ngô Nguyên Trái của mình mở quán kinh doanh sau một lần được học trò ở Mộc Hóa dẫn đi “cháp” món này.
Mới nghe cái tên bún Xiêm Lo thì người từng ăn sẽ nghe thoang thoảng đâu đây mùi bún rất đặc trưng của nó, còn người chưa ăn thì nghĩ ngay đây là một món ẩm thực Khmer.
Nhiều người cho đây là một món hợp tấu Việt – Khmer. “Xác” là canh rau tập tàng Nam bộ. Còn “hồn” là bún nước lèo.
Thật ra, đây là một loại canh ăn với bún. Nó giống như canh cà chua với thịt nạc heo băm vo viên chan vào bún gọi là bún mọc. Canh Xiêm Lo ăn với bún thành ra bún Xiêm Lo.
Trong một bài viết về bún Xiêm Lo trên báo Thanh Niên có nói: “Nhiều trưởng lão ở Sóc Trăng cho rằng Xiêm Lo là tác phẩm của cuộc phối ngẫu giữa anh chồng người Việt và vợ Khmer kén ăn. Bởi ban đầu, nguyên liệu nấu canh này là cá đồng (cá lóc hoặc lươn), tép bạc. Mắm nêm canh là bù-hốc, được làm bằng cá tạp loại nhỏ: sặc, rô, cửng, tốp…Rau nấu canh là bầu non hoặc rau ngổ. Nghe qua, chắc không ít bạn nghi ngại vì canh này "ô hợp" quá. Song chẳng phải vậy. Món này có mùi thơm độc đáo lắm. Đó là kết quả của sự cộng hưởng, thăng hoa của củ sả đập giập, thính gạo nếp và mắm bù-hốc đã khử tanh bằng dầu (mỡ) gia thêm tỏi, ớt. Và vị ngọt cũng thế, đó là sự giao hưởng giữa chất đạm cá đồng, tép tươi với đạm của mắm.”
Nhưng đó là Xiêm Lo của các chuyên gia ẩm thực.
Còn với Kiến Bình “loạn”, khác à nghen.
Cái tên Xiêm Lo cho thấy một sự tự tin vào chất lượng, đồng thời đe dọa, hăm he đối thủ cạnh tranh. Nó hàm ý, món bún này ngon tới mức mà người Xiêm (tức láng giềng Thái Lan) phải lo lắng. Người Thái vốn nổi tiếng với món canh lẩu Thái vừa chua té… nước miếng, vừa cay chảy nước mắt, nước mũi. Đối thủ của nó chính là bún Xiêm Lo.
Tuy nhiên, đó là lý lẽ của những ai nặng nợ với bà con Khmer, từng tơ tưởng một tấm Xà-rông quấn trên mình một nàng Khmer họ Thạch. Còn với những ai thường xuyên lai vãng tới Pattaya mải mê ngắm nhìn mấy nường Kathoey (tên gọi của giới tính thứ ba ở Thailand) chuyển đổi giới tính thì ắt hiểu theo một hướng ngược lại 180 độ. Bún Xiêm Lo có nghĩa là bún dở ẹt tới mức người Xiêm phải lo rằng nó sẽ bị ế nhề ế nhệ.
Chẳng biết ai đúng ai sai, nhưng khi sực nhớ tới chủ quán bún Xiêm Lo Thạch Xà-rông là ngài Ngô Vàng, ta không khỏi nơm nớp lo sợ. Bậc thầy “ma-kết-tinh” (ma kết hợp với tinh thành quỷ) này lừng danh là người đụng cái gì ế cái nấy. Chán món bắp gia truyền, ngài chuyển sang bán cà chua – thành cà chua ế, bán gừng – thành gừng dội khẩu, nay vừa mới quấn xà-rông mở quán bún Xiêm Lo được mấy bữa lại rắp ranh dòm ngó tới món thuốc đông y Đả Hoài Hương Đặc Dược. Hèn gì mà lâu lâu ghé qua lại thấy ngài Ngô Vàng ngồi giữa đám ruộng ngô mà cạp bắp!


Cá mú

Thầy Đỗ Hiền triết vừa chuyển tới Kiến MZ thắc mắc của Người Thắc Mắc về từ "cá mú".
1. Cá mú là tên một loài cá nước mặn, sống ở các vùng biển nhiệt đới và á nhiệt đới, tập trung nhiều ở Thái Bình Dương. Họ cá mú còn có tên khác là họ cá song (tên khoa học Serranidae). Việt Nam có tới 30 loài cá mú. Cá mú thuộc nhóm cá dữ, ăn mồi động vật sống. Cá mú khổng lồ có thể nặng tới 20kg hoặc hơn. (Xin click vào đây để chiêm ngưỡng dung nhan loài cá mú đỏ). Cá mú luôn là loại cá được ưa chuộng hàng đầu trong các loài cá biển vì thịt trắng, ngọt, dai, thơm ngon. Ở nhà hàng, người ta chuộng loại cá mú trên dưới 1kg cho vừa ăn. (Xin click vào đây để thưởng thức mòn cá mú hấp).
2. Có lẽ do quá được "ngưỡng mộ" bởi cái tính "hẩu xực" mà từ cá mú còn được dùng làm danh từ chung chỉ các loại cá. Như người ta nói: "thịt thà cá mú".
3. Những người đi biển, nghề sông nước, kiêng cữ gọi chính tên của một vài loài cá. Như cá voi, cá ông được gọi là ngài hay ông. Như vậy, "cá mú" có thể là cách gọi kị húy của "cá mập", vì "mú" còn có nghĩa là mập, to con.
4. Nếu từ "cá mú" được phát ra từ cửa miệng của những chuyên gia nói lái như bạn Lê Ngọc Điền nhà mình, thì bạn phải cẩn trọng. Bởi có thể nó không phải là loài động vật dưới nước mà lại là một con "chim cái". "Cá mú" được đọc lái từ "cú má" = "cú mẹ" => "chim cái".
5. Cũng kiểu nói lái, "cá mú" là kết quả của cách nói vừa lái, vừa lẹo (miệng) của "má cú" = "má cứu", để diễn tả một chuyện vô phương cứu chữa, chỉ thua 'trời cứu" thôi. Thí dụ: "Cá mú mày rồi đó con ơi!" có thể hiểu là "Má cứu mày rồi đó con ơi!".
6. Khi nghe dân cá độ bóng đá nói với nhau, từ "cá mú" có thể có nghĩa là "bắt cá đội MU". (MU: Manchester United).
7. Bọn tội phạm có thể dùng từ lóng "cá mú" để báo là "không có công an". "CA", viết tắt của "công an", thường bị gọi là "cá". "Mú" còn có nghĩa là "không", "hết sạch".
8. Mặc dù "mú" còn có nghĩa là mập, nhưng "gái mú" không hề có nghĩa là "gái mập". Từ lóng (slang) "gái mú" này được dùng để chỉ cái vụ "gái trai" của dân ăn chơi. Nó cũng đồng nghĩa với "gái gú".
9. ... Hình như Kiến MZ hơi bị quởn đó nghen!


Các thầy

Ngồi đọc đi đọc lại các trang viết trên Web THKT sao mà thắm đậm tình nghĩa thầy trò quá chừng. Nhưng tôi bỗng giựt mình, run rẩy khi phát hiện một "chi tiết chết người". Đó là khi mọi người dùng cách xưng hô "các thầy" coi rất trang trọng, tôn kính nhưng lại quên đi mất tiêu rằng "các thầy" còn là cách nói lái của "cầy thác", mà "cầy thác" có nghĩa là "chó chết".
Vì lẽ đó, từ nay xin mọi người hãy dùng cách xưng hô đầy đủ là "các thầy cô" chớ đừng dùng "các thầy" nữa nhé. (NGUYỄN CÔNG PHONG bình "loạn").


Chợ búa

Cái Người Thắc Mắc lại mới nhờ thầy Đỗ Hiền triết  chuyển tới Kiến MZ thắc mắc về từ "chợ búa".
1. Cứ suy diễn theo cách gọi như chợ cá, chợ thịt,... thì "chợ búa" đơn giản là nơi chuyên bán... búa rồi chứ gì. Tới đây, bạn có thể chạm mặt một khách hàng thường xuyên là Chú Cuội. Chàng ta liên tục mua búa cho bén về chặt mớ cành đa đem bán lấy tiền mua thẻ cào gọi điện "tám" với chị Hằng Nga.
2. Nhưng thông dụng nhất là "chợ búa" được dùng để chỉ công việc buôn bán nói chung ở chợ. "Đi chợ búa kiếm chút tiền độ nhật." Khi nói tới những người sống ở chợ, buôn bán ở chợ, người ta chỉ gọi là "dân chợ"; còn nếu thêm từ "búa" thành "dân chợ búa" thì lại mang nghĩa xấu; kêu lạng quạng có thể bị chém bằng búa!
Còn vì sao lại gọi là "chợ búa", thì theo tài liệu gia truyền khai quật được dưới những tảng đá Núi Đất, hồi xưa, người bán hàng ở chợ không "chém" người mua hàng bằng dao (đặc biệt là dao cạo) như hiện nay, mà thường dùng búa. Vì thế, bên quầy tính tiền, người ta không treo thẻ môn bài mà lủng lẳng những cây búa luôn được mài bén ngót. Từ đó chợ được gọi là "chợ búa". 


Dao động

Trong bất cứ tình huống nào, dù thật nguy kịch, ta cũng không được dao động. Bởi dao động đồng nghĩa với thất bại, với tiêu đời.
Dao dộng là một cách nói tắt của "động dao, động thớt". Nghĩa là chuẩn bị ra tay dùng dao mà hạ thủ. Không chết cũng bị thương là cái chắc!


Đại nhân

Bà con ta, nhất là từ khi rộ lên phong trào phim bộ chưởng Hồng Kông, dùng cái danh xưng chữ Hán này để gọi các bậc trưởng thượng, những người quyền cao, chức trọng, đáng tôn kính.
Theo ngữ nghĩa này thì toàn thể Gia đình THKT đều là các đại nhân, vì đều đã ở vào cái độ tuổi mà người đời phải tôn kính (...và chuẩn bị... tôn thờ).
Nhưng nếu coi đây là một từ Hán Việt giao duyên thì "đại nhân" còn có nghĩa là "kẻ chuyên làm đại". Mà suy cho cùng cũng nào có sai. Phàm thì là mà rằng các "đại nhân" quyền cao chức trọng thường dễ lộng quyền tự cho mình có cái quyền "làm đại".
Vì lẽ đó,
1. Khi được ai đó gọi là "đại nhân", ta chớ tự đắc, coi chừng mình bị hắn "chửi" là "kẻ chuyên làm đại, làm bậy".
2. Khi được xưng tụng là "đại nhân" theo nghĩa tích cực, ta phải tự dặn lòng mình rằng: hãy luôn cẩn trọng, đừng có "làm đại".


Đào hoa

Có người biểu "đào hoa" là cách đọc theo tiếng Hán của "hoa đào", giống như "mai hoa" là "hoa mai" vậy mà.
Nhưng theo ngôn ngữ thường ngày, đào hoa được dùng để chỉ những đấng liền ông có nhiều hơn một người tình. Với một mức độ nào đó, "đào hoa" là cách nói văn chương, lịch sự của cụm từ "ba lăng nhăng", hay bình dân hơn là "dê xồm", hoặc thô tục hơn là "già không bỏ, nhỏ không tha".
Còn để chỉ những chàng trai lịch thiệp, phong nhã được nhiều cô gái rung động con tim, người ta dùng từ "hào hoa".
Phải công nhận rằng ông bà mình dùng chữ "đào hoa" quá đã. Nó chính xác cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. "Đào hoa" là "đào" cây "hoa" lên mang về nhà mình xài. Đào một cây thì chẳng ai nói, còn mấy ông "đào" tá lả cây "hoa" quả là tham quá chừng!  


Đạo sĩ

Thầy Đỗ Ngọc Trang từ Elk Grove chuyển thắc mắc của Người Ngây Thơ hỏi về "đạo sĩ".

Theo Việt Nam Từ điển Khai Trí Tiến Đức, đạo sĩ là người theo đạo thần tiên của Lão giáo. Nói nôm na là người tu tiên giữa cõi nhân trần. Cái này coi bộ là cái "ám ảnh" đạo sĩ của thầy Nguyễn Văn Hòa. Khác với "thiền sĩ" Đỗ Xanh trốn Nước Biếc Phu nhân ra động Đình Hồ ngồi nhập thiền một mình thoát tục, "đạo sĩ" Hòa Guitar ngồi tựa vào Nước Ngọc Phu nhân gảy đàn tình tang mà tu tiên. Nhưng coi chừng có người vịn cớ mần "đạo sĩ" để né việc nhà, có ông nại cớ để trốn việc chồng! Thiện tai, thiện tai!

Nói chung, đạo sĩ là những người tu hành của các giáo phái, khác với tu sĩ là nhà tu hành của các tôn giáo. Đạo sĩ có thể có bùa phép, và điều hấp dẫn nhất là có thể có đạo sĩ chồng, đạo sĩ vợ, đạo sĩ con, đạo sĩ cháu,...


Người ta cũng thường dùng danh xưng "đạo" cho những người có hành vi, cách sống khác bình thường, khác thiên hạ. Nó gần giống như "dị nhân".

Hồi trước 1975 ở Saigon có thời gian rộ lên những ông đạo, bà đạo thuộc loại... "trời thần". Chẳng hạn có một ông bữa nọ hỗng biết ăn trúng thứ gì mà bắt đầu có cách đi đứng kỳ cục là cứ đi 3 bước thì lùi lại 2 bước. Thiên hạ phong cho ông ta ngoại hiệu "đạo Chậm". Bữa nọ, đang di chuyển cà giựt cà tàng kiểu hỗng giống ai ở khu vực công viên Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành, ông ta "mót" quá, chịu không nổi nên "tháo nước trong người" ngay tại chỗ. Khi nhác thấy cảnh sát xách dùi cui chạy tới, ông "đạo" nhà ta hoảng hồn ba chân bốn cẳng bỏ chạy có cờ. Vậy là mất ngoại hiệu "đạo Chậm".

Cứ chiếu theo tiền lệ thì mấy vị trong cái gánh xiếc "Đạo Nổ Ngàn Phương" của thầy Đỗ Xanh cũng có thể được gọi là "đạo sĩ". Bởi thiên hạ làm xiếc người, xiếc thú, còn họ chơi khác thường làm xiếc chữ. Họ lại có cái công phu "nổ banh xác" luôn, nổ tới mức Bác Ba Phi sống lại cũng phải bái làm sư phụ! Cứ coi cái công phu "đạo nổ" của thầy Ngô Vàng ắt rõ!

Còn trong quân đội, hỗng rõ "đạo sĩ" nằm ở khúc nào trong nhóm hạ sĩ quan: hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ?

Giới văn nghệ thì tẩy chay những kẻ bị dán cái mác "đạo sĩ", viết tắt của "đạo chích văn chương". Đó là những kẻ "cầm nhầm" văn thơ của người khác làm của mình.


Đâm chuột

Ở Mộc Hóa có một món đặc sản là thịt chuột đồng. Bữa nọ, có anh bạn được hỏi: "Mùa hè mỗi ngày ông đi "đâm chuột" mấy lần?" Lâu rồi thiên hạ truy bắt dữ quá, chuột đâu còn nhiều mà ngày nào cũng đi đâm. Bởi vậy, anh bạn trả lời: "Năm bữa nữa tháng mới làm một lần". "Trời thần đất quỷ ui, sao ông ở dơ dữ vậy? Ai mà chịu đời cho nổi! Hôi rình! Thúi hoắc!"
Này nhé, "đâm chuột" tức là "đâm tí". Mà "đâm tí" là nói lái của "đi tắm" đó mà!


Giả đò

Đò dọc là đò chạy dọc theo sông, từ địa phương này tới địa phương khác. Thí dụ ngày xưa dân THKT ngồi tắc ráng chạy từ Cai Lậy vô Mộc Hóa.
Đò ngang là đò chở khách từ bờ bên này qua bờ bên kia sông. Thí dụ ngày xưa đi đò dưới chân cầu Cá Rô để từ thị xã Mộc Hóa qua xã Bình Hiệp.
Gọi đò là đứng trên một bờ sông cất tiếng gọi đò đưa mình qua sông. (Nhưng ra Huế, đứng trên bờ sông Hương mà "gọi đò" thì có khi không phải để qua sông mà là ... ra giữa sông!).


Nhưng giả đò thì hỗng phải là đò giả. Nó lại có nghĩa là giả bộ, làm bộ.
Hãy nghe bà Tám kêu thằng con: "Mày giả đò qua nhà cô Chín mượn cái phảng để coi tía mày đang mần cái giống gì ở nhà cỗ mà hễ xổng một cái là tót ngay qua bển."
Tội nghiệp thầy Ngô Nguyên soái, chuyên gia gọi đò của THKT. Thầy đã thắc thỏm, khắc khoải, thống thiết khan cả tiếng, rát cả họng gọi đò hết sớm lại chiều mà cô lái đò năm xưa cứ "giả đò" không nghe!
Đò ngang, đò dọc gọi đò
Trách sao cô lái giả đò không nghe...


Hành hương

Theo từ điển chính thống, hành hương là ra khỏi nơi mình ở, nơi mình thường sống để đến một nơi linh thiêng nào đó.
Nhưng không chỉ có ý nghĩa tâm linh, hành hương còn là một từ tượng hình, tượng cảnh. Bởi ở các nơi thờ tự, cúng bái, thiên hạ thường đốt hương (nhang) mù mịt. Vì vậy, hành hương còn có nghĩa là "hành hạ mấy cây hương" (đốt lu bù) hay bị "hành hạ bởi hương" (do ngột ngạt mùi khói hương).


Hấp hôn

Ai cũng biết "hấp" là làm cho nóng lại. Như hấp cơm. Nó na ná như "hâm" (hâm canh). Nhưng "hâm" thì dùng lửa bếp tác động trực tiếp lên xoong chảo, còn "hấp" thì chủ yếu dùng nguồn nhiệt tạo hơi nóng để làm cho vật thể nóng lên. "Hấp" vì thế sẽ "đổ nhiều mô hôi".
Suy ra: "hấp hôn" là làm nóng lại cuộc hôn nhân. Sở dĩ dùng "hấp hôn" hay hơn "hâm hôn", vì chuyện này cần phải "đổ nhiều mồ hôi nước càng tốt" và một lẽ nữa là nó gợi ngay liên tưởng đến từ bà con "hấp hối". Cuộc hôn nhân mà không được làm nóng, giữ nóng liên tục thì dễ dàng đi tới... hấp hối! vậy thì, tùy bạn chọn: hấp hôn hay hấp hối!


Ít ly

Hôm rồi một số thầy trò THKT về thăm lại Mộc Hóa. Về Đồng Tháp Mười mà không bị đổ rượu mới là chuyện lạ! Nhưng sao mới uống có "ít ly" lại xỉn quắc cần câu vậy cà?
Xét đúng bài bản thì tuy "ít ly", nhưng dân Đồng Tháp Muời chơi toàn ly cối rượu đế, chịu đời sao thấu!
Còn xét về nghĩa tửng từng tưng, "ít ly" là style nói lái của "y lít" đó mà!
Kiểu nào cũng từ chết tới bị thương!


Làm thinh

- Thầy Ngô Nguyên Soái: Kiến MZ ơi, trong tiếng Việt chúng ta, từ Thinh có nghĩa là Thanh (tiếng động). Nhưng tại sao ngày xưa, nhiều lần tôi đã "làm thanh" với một cô hàng xóm (dung nhan cũng khá đèm đẹp) để được làm quen nàng, nhưng mà rồi nàng lại cứ… "làm thinh"?! Đáng lẽ "làm thinh" đúng nghĩa là nàng phải lên tiếng trả lời “yes” hay “no” cho tôi chứ, đàng này cô nàng làm thinh lại có nghĩa là… nín thinh! Ôi! sau lần đó về nhà nhớ lại, tôi bị.. "buồn ba bốn ngày"! Còn chần chừ chi nữa mà Kiến MZ không bình loạn dùm cái từ ngữ rắc rối, khó hiểu này đi, kẻo không, có người hiểu lầm rồi lại phải bị… "buồn xong vẫn buồn"! Mong Kiến MZ đừng... làm thinh trước khẩn cầu này. Đa tạ.
- Dạ thưa thầy Ngô Nguyên... Trái (dạ xin lỗi, Bắp Nguyên Soái; lại nhầm thầy Ngô Nguyên Soái), đã có lệnh của thầy thì làm sao học trò dám... làm thinh!
Ở đây có 2 kịch bản.
1. "Thinh" có nghĩa là "thanh". Thật may cho thầy Ngô vì ngày đó cô hàng xóm "làm thinh" (với nghĩa là nín thinh). Nếu cô ấy mà "làm thanh" rùm beng lên khắp đầu làng cuối xóm thì thầy chắc ê ẩm cái tấm thân "cá lành canh truyền thống" rồi. Vấn đề ở đây cần phải giải mã là vì sao cô hàng xóm lại "làm thinh" khi thầy Ngô "làm thanh"?
2. "Thinh" theo ngôn ngữ của quý phụ nữ. Các chuyên gia nói rằng phụ nữ thường nói hay làm ngược với những gì lòng mình nghĩ. Thí dụ, "phụ nữ nói có là không, nói không là có". Cô hàng xóm "làm thinh" có nghĩa là đồng tình và nhá đèn xanh "tới luôn bác tài"! Vấn đề ở đây cần phải giải thích là vì sao thầy Ngô Nguyên Soái lại không nhận ra "tín hiệu" của cô hàng xóm?


Hậu mạt chược là mạt trượt

Thầy Đỗ Hiền triết vừa tìm lại được bạn xưa, thầy Trịnh Đình Loạt, sau 42 năm xa nhau, đã vội chuyển cho Kiến MZ thắc mắc của nhân vật Người Ngây Thơ rằng: Xin cho hỏi chơi mạt chược là chơi cái gì? Có phải nguyên văn tiếng Nam bộ là "mạt trượt"? Chơi bài kiểu gì mà một bên bị trượt, một bên bị mạt, thì... I dunno man - Người ngây thơ.
Thú thiệt là trong Tứ đổ tường, mỗi thứ Kiến MZ chỉ dính có một nửa (xách chứ không hút, cờ chứ không bạc, chè chứ không rượu, gái chứ không trai), nên cái vụ này nằm ngoài vòng "đá" của Kiến MZ. Đành phải trổ tài sục sạo thôi.
Mạt chược là một môn chơi cờ có nguồn gốc Trung Hoa. Mạt chược là từ Hán Việt kép, được phiên âm theo tiếng Quảng Đông "Ma-Tước" (con chim sẻ). Còn phiên âm theo tiếng Phổ thông (Quan Thoại) là "Ma-Gioong", vì thế trong tiếng Anh, mạt chuợc được dịch là Mahjong. Sở dĩ có tên mạt chược là vì  con bài thứ nhất của bộ bài, tức con Nhất Sách, có ký hiệu là con chim sẻ.
Quân cờ mạt chược na ná như domino của phương Tây. Bộ bài mạt chược của người Hoa chỉ có 144 quân. Người Việt "giàu tính sáng tạo" bổ sung thêm, lên tới 160 quân và thậm chí còn hơn thế nữa. 4 hay 6 người chơi. Mạt chược được chơi trên một chiếc bàn vuông. Chơi mạt chược được gọi là xoa mạt chược. (Xin click vào đây để tìm hiểu thêm về mạt chược.)
Do hậu quả của mạt chược mà người ta đọc trại nó thành mạt trượt. Đam mê mạt chược cầm bằng là sẽ "mạt rệp" và "trượt trớt lớt". Cũng như mọi loại cờ bạc khác, mạt chược được "thằng Bần" gọi là bác (cờ bạc là bác thằng bần). Và suy ra, không phải chỉ có mạt chược, mà các món cờ bạc đều có hậu quả là "mạt trượt".
Hy vọng Người Ngây Thơ chỉ hỏi cho thỏa óc tò mò, chớ đừng nên dựa thế gần gũi như hình và bóng với thầy Đỗ Hiền triết mà rủ rê thầy Đỗ Xanh, cô Nước Biếc, thầy Loạt và phu nhân gầy một bàn mạt chược nhé. Hồi xưa họ dạy chung trường THKT, nay lại là láng giềng của nhau nơi xứ người, cũng đủ một bàn mạt chược rồi đó. Báo hại từ rày thầy Đỗ tót ra Động Đình Hồ không phải để thiền mà là để nghiền ngẫm nước cờ xoa mạt chược thì... thiện tai! thiện tai!


Mệt nghỉ

Ở đây, mệt nghỉ không có nghĩa là "mệt rồi thì nghỉ". Mệt nghỉ không phải là nghỉ mệt. Mệt nghỉ ở đây hàm nghĩa là vô số tận, nhiều lắm, không hết. Thí dụ: Xài tiền mệt nghỉ. Ăn mệt nghỉ. Khi nghe ông chủ bảo "Làm mệt nghỉ" mà bạn hí hửng rằng "làm tới khi nào mệt thì nghỉ" thì chắc chắn bạn sẽ phải húp cháo vì bị cho nghỉ vĩnh viễn!


Nghệ nhân

Nghệ nhân là một người khéo tay, khéo chân, đạt tới mức thượng thừa trong một môn nghệ thuật nào đó. Từ điển giải thích như vậy.
Nhưng tìm đỏ con mắt, lục tung cả cái bộ đại từ điển bách khoa trực tuyến Wikipedia cũng không tìm ra ở đâu cắt nghĩa "nghệ nhân" là một thuật ngữ y khoa. Cũng không rõ các bác sĩ trong Phòng mạch THKT đã từng học qua chưa? Thì nè, "nghệ" là màu vàng (vàng như nghệ đó mà), còn "nhân" là người. Nghệ nhân - người màu vàng đích thị là người mắc bệnh gan rồi. Mà đây là giai đoạn hết thuốc chữa à nghen, vì bình thường thì người bệnh gan chỉ vàng hai con mắt thôi, đàng này vàng tới nguyên cả body thì chí nguy rồi.
Vì thế, từ nay, có ai xưng tụng (hay chửi rủa, tùy ngữ cảnh) mình là "nghệ nhân", bạn cũng đừng có quá "ham" mà bị "hố" đó nghen!


Nhớ thương

Nhớ thương là để xác định cái sự nhớ cồn cào ruột gan này là do “thương quá là thương” mà ra. Tiếng Anh thường dùng động từ “miss”. Nó phân biệt với “nhớ” (remember) là một trạng thái của bộ não để nhắc nhớ, nhớ lại, thí dụ như “nhớ ai để đòi nợ”.
Nhưng nhớ thương cũng có năm bảy đường. Nhớ thương… yêu thì thật ấm lòng, còn nhớ thương… hại thì nhói con tim.
Quả là ba mẹ thật sáng suốt và nhìn xa trông rộng khi đặt tên con gái rượu là Nhớ Thương. Nó hàm nghĩa “nhớ một người tên Thương” hay nhắc nhở “nhớ thương nó với nhé”.

Học Việt văn Trung học, mình từng bình giảng bài ca dao mà nhà phê bình Hoài Thanh đánh giá là “hay nhất Việt Nam”. Nó như vầy:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề.
(Xin click vào đây để nghe bài hát Thương ai, nhớ ai do nhạc sĩ Phạm Duy phát triển từ bài ca dao này).

Kiến MZ có người anh em Kiến Đen hồi THKT từng trồng cây tràm (ở KT hiếm có cây si) với một nàng tên Nhung ở nhà thờ Mộc Hóa. Gã bèn hì hục mần bản nhạc có tên là Nhớ nhung, kết bằng câu xanh dờn: “Nhớ nhung nhiều, trọn đời anh nhớ nhung”. Kiến Đen tính là khi gặp nàng Nhung sẽ “khè” rằng: “Anh nhớ em tới mức làm nhạc nhớ em nè!” - (Nhung, viết hoa). Còn với mấy nàng có tên không hợp để mần thơ, mần nhạc thì gã dụ khị: “Anh nhớ nhung em quá chừng nên mần nhạc nhớ nhung nè!” – (nhung, viết thường). Hỗng biết từ sáng tới giờ gã đang mần cái gì mà gọi điện không nghe máy!


Ôn cố tri tân

Ôn cố tri tân là một thành ngữ Hán Việt có nghĩa là ôn lại chuyện cũ để biết làm chuyện mới. Nói cho gọn là "rút kinh nghiệm" đó mà.
Vào mỗi cuối năm, từng tập thể, từng cá nhân có tập tục tốt đẹp là tổng kết lại một năm qua và đề ra kế hoạch cho năm mới. Và năm mới chỉ có thể thành công dựa trên những nền tảng (cả những thành quả lẫn những kinh nghiệm) của năm cũ.
Có điều hỗng giống ai là dịp cuối năm đầu tiên kết nối lại được với nhau, bà con Gia đình THKT mình lại không ôn cố tri tân như thiên hạ mà hè nhau đi vọng cố nhân. Chẳng lẽ phiên bản 2010 ôn cố tri tân của THKT là "ôn cố nhân, tri tân nhân"?
Thiệt tình, ai chẳng có cố nhân để nhớ. Chí ít cũng một người. Đó là chưa kể các bậc "nguyên soái tình trường" có danh sách cố nhân dài sọc như sớ Táo quân: A Lìn, sà-rông, răng khểnh, môi vều,... chỉ nghe liệt kê thôi cũng biết cuộc đời ốm o triền miên. Chỉ có kẻ bạc tình, có trăng quên đèn mới không nhớ cố nhân. Nhưng vọng thì cũng có ba bảy đường vọng. Vọng sao cho vui cửa, êm nhà mới đáng là THKT chân nhân! Chữ "vọng" còn cặp kè với chữ "tưởng" thành "vọng tưởng" những chuyện hão huyền, viễn vông. Bởi vậy mới cần tới câu:
Cố nhân là của ngày xưa
Vọng thì cứ vọng, nhưng chừa tưởng ra!

Thôi thì hãy làm theo cái nghĩa tích cực của "ôn cố nhân, tri tân nhân" là rút kinh nghiệm (ôn) với người xưa mà biết (tri) xử sao cho tốt đẹp với người nay!
Gia đình THKT mình chỉ toàn là những hảo hán, những anh thư giàu tình cảm và tình nghĩa, bởi nếu thiếu hai cái chữ "tình" này thì chúng ta đâu thể xúm xít quây quần bên nhau, bất chấp không gian và thời gian, như thế này!


Ông nội... dư

Thú thiệt, lần đầu tiên trong đời Kiến MZ mới được nghe tới cái từ “ông nội dư” do thầy Ngô Nguyên soái xưng danh. Nói theo style của thầy Đỗ Hiền triết thì ở đâu mà “tòi” ra thêm mấy ông nội, bà nội vậy ta?
Hy vọng “ông nội dư” ở đây chỉ có nghĩa như vậy. Đó là có thêm mấy ông nội “ngang hông”, mấy ông nội “khuyến mại” (bonus grandpa), mấy ông nội ăn theo. "Ông nội dư" được ông nội "chân truyền" ban tặng cho bằng hữu có chọn lựa trong buổi trà dư tửu hậu, không có gì phải ràng buộc như "ông nội nuôi".
Riêng với thầy Ngô Vàng thì thầy ấy sắc phong danh xưng "ông nội dư" với tiêu chuẩn không hề dễ xơi như ăn xôi bắp đâu: Cha mình kết giao thâm tình như anh em ruột với người bạn nào đó thì con của mình gọi những người đó là "ông hay bà nội dư". Tình cảm của đứa trẻ hoàn toàn thực sự xem "ông bà nội dư" như là ông bà nội ruột. Và quan trọng nhất là chỉ khi nào những người lớn này xét thấy thực sự họ yêu thương nhau như anh em ruột. Từ "ông bà nội dư" không thể bạ ai cũng gọi được vì "ông bà nội dư" là danh hiệu cao quí, trân trọng của những tấm lòng với tấm lòng. Đây là danh xưng cổ và không được phổ biến lắm nên ít người biết và hiểu.
Chẳng rõ là với số lượng "ông bà nội dư" có thể đông tới cả tiểu đội, trung đội như vậy, liệu có phải lập ra "hội đồng ông bà nội dư" không?
Cũng có điều còn cà ngơ cà ngất: ông nội "chân truyền" gọi là "ông nội ruột", vậy sao anh em kết nghĩa thâm tình với ông nội ruột lại không được gọi luôn là "ông nội ruột dư" cho nó tiện hơn?
Quả thiệt là cháu nội có số đẻ bọc điều nên ngoài ông nội “có sẵn để xài” còn có thêm một mớ “ông nội dư” sơ-cua. Giống như cô cháu Bạch Tuyết có 7 “ông nội” chú lùn. Đó là một loại của dư, của để.
Cầu mong “ông nội dư” ở đây được gọi hỗng phải theo kiểu “Hội đồng Dư” trong vở cải lương Tiếng hò sông Hậu, một ông hội đồng thất nhơn thất đức top-level!
Ông nội ngang hông mừng vui và hạnh phúc khi được xưng tụng là “ông nội dư”. Còn ông nội “chân truyền” mà để bị gọi là “ông nội dư” thì thiệt là tiêu Vên Vên. Ngay cả các vị được xưng tụng là "ông bà nội dư" cũng phải ráng mà sống sao cho xứng đáng. Kẻo không thôi lại bị thằng cháu nó lầu bầu: "Có một ông nội đã mệt thấy mụ nội (xin lỗi) rồi, đàng này có cả bầy ông nội dư, bà nội dư! Chịu đời sao thấu!" 
Tất nhiên trên đời này phàm có dư thì ắt có thiếu. “Ông nội thiếu” hàm nghĩa là “thiếu ông nội”, một cách gọi kiêng húy để chỉ những ông nội đã phủi cẳng nhảy lên ngồi tréo nguẩy trên bàn thờ! Bất hạnh thay cho cháu nào sinh ra không còn ông nội nữa. Làm sao có được cái hạnh phúc được bú sữa ông nội… pha? Có chăng chỉ có thể xài tạm sữa ông già Longevity Milk mà thôi!


Kiến MZ là người nói có sách, mách có chứng. Nếu sữa bò là sữa vắt từ con bò, thì sữa ông già vắt từ đâu?


Răng khểnh

Răng khểnh là chiếc răng mọc lệch, nhô lên khỏi hàng ngũ. Nếu nó chỉ nhô lên vừa phải và nằm ở vị trí đắc địa trông hay hay đáo để thì có duyên và được gọi là răng khểnh. Còn nếu ngược lại, nó bị gọi là răng nanh.
Nhưng kinh nghiệm cho thấy, răng khểnh chỉ có duyên khi nó ngự trong khuôn miệng của người mà ta yêu thương. Còn nếu không, chiếc răng mọc vô trật tự đó chỉ làm cho cái "bản mặt khó ưa thêm đáng ghét"! Thiên hạ gọi là răng "lòi sỉ".

Ảnh chỉ mang ý nghĩa minh họa cho một chiếc răng khểnh rất duyên, không hề có liên can gì tới chiếc "răng khểnh nghiệp chướng" của thầy Ngô Nguyên soái.

Tiếng Anh gọi răng khểnh là irregular tooth, chỉ rõ là thứ vô trật tự, bất quy tắc. Mà trên đời này, cái gì bất quy tắc thì tới 99% là đáng ghét rồi. Thí dụ, học ngoại ngữ, ai cũng khiếp sợ ba cái động từ bất quy tắc (irregular verb), danh từ bất quy tắc,... Có lẽ chỉ có 1 thứ bất quy tắc duy nhất đáng yêu, chính là việc chia cái động từ... yêu. Cái sự chia động từ yêu thì chẳng ai giống ai, không tuân theo một quy tắc nào hết. Tới mức ông hoàng thi ca lãng mạn Xuân Diệu còn phải thốt lên "Làm sao định nghĩa được tình yêu. Có nghĩa gì đâu một... cái khều (xin lỗi, buổi chiều)".
Xét về phương diện nha khoa, răng khểnh là kẻ thù số 1 của các nha sĩ. Nó bị quy trách nhiệm làm "ảnh hưởng xấu tới vệ sinh răng miệng".
Xét về mặt tình nghĩa keo sơn của Gia đình THKT, răng khểnh gây tổn thương tinh thần và tổn hại vật chất cho thầy Ngô Nguyên soái. Qua chứng cứ do thầy Ngô Bảo Toàn không đánh mà khai, răng khểnh đích thị là răng nanh. Mà răng nanh thì của loài thú ăn thịt sống. Bằng chứng là chiếc răng khểnh năm xưa đã xơi tái hàng chục con heo (heo đất cũng là heo) của thầy Ngô nhà mình! Tội nghiệp ông thầy, không thể nào mập ra nổi chỉ vì 40 năm nay cứ phải hì hục "Bắc thang lên hỏi ông Trời,... (tự ý đục bỏ câu bát)".


Sà-rông, sà-lỏn, và hầm nắng

Hỗm rày nghe võ lâm đồn rằng thầy Đỗ Hiền triết đang rắp ranh lập gánh xiếc chữ, hình như – cũng theo đồn đại – để có cái chức danh “giám đốc” oách như thiên hạ. Chưa kịp xác minh thì sáng nay Kiến MZ đã nhận được thư thầy Đỗ chuyển tới hai câu đố chữ mới đọc thiếu điều muốn té giếng của Người Ngây thơ (không biết có “vô số tội” không?) Đó là: Cớ sao trong hầm lại có nắng? Sà-rông và sà-lỏn, cái nào có trước?
Cái hầm nắng này có lẽ nó cũng “sêm-sêm” như cái hầm gió. Hình như chỉ có ở xứ “Mi-chỉ-gàn” mới có cái hầm nắng như thế. Phải chăng “hầm nắng" là viết gọn từ “hầm tránh cái nắng quái cuộc đời”? Hầm có nắng nếu không phải là nắng nhân tạo thì đích thị là có lỗ mọi rồi. Nhưng suy cho cùng, hầm có nắng bởi vì có mây hồng, mây hồng chỉ xuất hiện ở những nơi có nắng (khôn cãi trời đất luôn vì tối thui ai mà thấy được mây hồng thướt tha cỡ nào).

Thiếu nữ Khmer trong những chiếc sà-rông truyền thống.

Còn sà-rông, sà-lỏn ư?
Vào cái thời ăn lông ở lỗ, sau khi tò mò nếm thử “trái cấm”, Adam và Eva mới khám phá được trên thân thể mình có những vị trí quá độc địa, cần phải che đậy làm... của riêng (chủ yếu họ sợ kẻ khác thấy được mà nảy sinh tà ý “chôm” mất chứ không phải vì mắc cỡ - như nhiều nhà nghiên cứu suy diễn đâu). Do phụ nữ vốn tính e thẹn (ở đây không bàn tới nó là thuộc tính hay sự giả đò), nên có nhu cầu che đậy cao hơn. Vì thế mà sà-rông ra đời trước. Nhưng phụ nữ là sinh vật duy nhất có gene thời trang hòa trong máu (nồng độ tùy người) nên phải thay xiêm đổi áo liền tù tì. Cái sà-rông đầu tiên bị loại ra, bỏ thấy uổng, nên Adam dùng để may cái sà-lỏn cho mình. Nó có cái vòng lẩn quẩn thế này: sà-rông may sà-lỏn, rồi sà-lỏn kiếm tiền chạy ra fashion shop mua sà-rông cho người may sà-lỏn.
Có một chi tiết là cả sà-rông lẫn sà-lỏn đều là trang phục phi giới tính (unisex), nam hay nữ đều mặc được tuốt luốt.
Xin hỏi lại Người Ngây thơ: cớ sao không hỏi luôn 2 câu nữa cho nó đủ bộ tứ: Tại sao trái đậu lại có hột đỗ? Tại sao kiến đen lại đen thui?


Sáng kiến

Người ta dùng từ “sáng kiến” để chỉ ý tưởng mới, nhất là để giải quyết một vấn đề gì đó. Nhưng vì sao lại là sáng kiến, chứ không là “trưa kiến”, “tối kiến”?

Cách dùng từ “sáng kiến” này có luận cứ khoa học rõ ràng và vững chắc. Trước nay các nhà nghiên cứu đều nhận ra rằng: sau một đêm được nghỉ ngơi và nạp lại năng lượng, bộ não con người sáng suốt và minh mẫn nhất là vào buổi sáng. Vì thế, cũng chỉ có thể là sáng suốt chứ không có trưa suốt, tối suốt. Xin mở ngoặc nói thêm: “trưa suốt” là chỉ người trưa nào cũng làm một giấc thẳng cẳng, còn “tối suốt” là chỉ kẻ tối nào cũng la cà nhậu nhẹt.

“Sáng kiến” còn được viết tắt bởi cụm từ “sự SÁNG suốt của dân KIẾN Tường”. Có nghĩa là bà con THKT mình ai cũng có một bụng đầy sáng kiến. Mức độ thế nào chỉ tùy thuộc vào đêm hôm trước ngủ nhiều hay ít, ngủ ngon hay không ngon.

Xét về ngôn ngữ học Hán – Việt, “sáng kiến” (buổi sáng gặp nhau) là một thói quen đã trở thành thuộc tính của Gia đình THKT kể từ hạ tuần tháng 3-2010. Buổi sáng thức dậy, vừa nhâm nhi cà phê hay nhẩm xà, các thành viên THKT thường vào Web THKT để gặp nhau và coi có gì mới không.


Sinh nhật

Cái từ sinh nhật quá đỗi quen thuộc này coi vậy mà rắc rối à nghen.
Từ kép chữ Hán này dịch sát sàn sạt là "ngày sinh". Nhưng nó lại không dùng để chỉ ngày ai đó thật sự cất tiếng khóc chào đời mà dùng cho ngày kỷ niệm ngày sinh của người đó.
Tiếng Anh phân biệt rất rõ: birthday là sinh nhật, còn date of birth hay day of birth là ngày sinh.
Đối với người Việt Nam, sinh nhật có nghĩa là kỷ niệm ngày sinh từ năm thứ hai trở đi. Chứ kỷ niệm ngày sinh lần thứ nhất, tức tròn một tuổi, người Việt mình gọi là thôi nôi.
Thế rồi, từ năm 60 tuổi trở đi, đặc biệt vào các năm chẵn chục, người ta không gọi là sinh nhật mà là mừng thọ. Ai sống tới 60 tuổi thì bắt đầu được con cháu mừng thọ. Năm 80 tuổi, 90 tuổi được gọi là thượng thọ. Còn 100 tuổi là đại thọ. (Xin lưu ý là từ 60 tuổi đã là thọ, còn việc phân chia "đẳng cấp" thọ thì còn tùy từng nơi. Có khi 70 tuổi đã được gọi là thượng thọ, 90 tuổi đã là đại thọ.)
Nhưng có khi nào bạn nhận ra cái sự bất hợp lý này chưa? Đã gọi là "sinh nhật" (mừng ngày sinh) thì phải tổ chức mỗi tháng một lần chứ. Thí dụ, Kiến MZ sinh ngày 28 thì lẽ ra hàng tháng cứ tới ngày 28 là "tiến hành" nhận quà cáp thiên hạ! Nào có ai gọi là "sinh nguyệt" hay "sinh niên" đâu mà phải đợi một năm mới mừng một lần!


Tái ngộ

Theo từ điển chính thống, tái ngộ có nghĩa là gặp lại (tiếng Anh là meet again). Nó được ghép bởi hai từ Hán Nôm: tái (lại) và ngộ (gặp).
Còn theo Giang hồ Đại từ điển Tầm nguyên (hình như của nhà xuất bản Tầm Bậy do chuyên gia Tầm Bạ biên soạn), sở dĩ cái vụ gặp lại được gọi là tái ngộ vì xuất phát từ thực tế: khi gặp lại nhau sau nhiều năm xa cách, người ta dễ xúc động tới mức gương mặt "tái" đi coi rất "ngộ"! Tất nhiên cũng có nhiều tình huống khác khiến người ta tái mặt, nhưng những kiểu "tái" đó coi không có "ngộ". Thí dụ, mặt tái vì giận hay mặt tái vì sợ thì không thể nào coi ngộ được hết.


Tế nhị

Vì sao chuyện "tế nhị" chỉ nên hành xử ở chốn riêng tư, không nên bày ra trước mặt bàn dân thiên hạ?
Rất đơn giản, ta chỉ việc chiết tự và phân tích hai chữ này. Tế nhị ở  đây được xét như một từ Hán nôm. "Tế" là "cúng" và "nhị" là "hai". "Tế nhị" có nghĩa là "cúng hai", mà "cúng hai" là cách nói lái của "cái hun".
Vì thế, người "tế nhị" sao lại "hun" nhau giữa thanh thiên bạch nhật ở chốn đông người?


Thất kinh

Đây là một thuật ngữ (term) trong ngành sản phụ khoa. Nó được ghép bởi THẤT (mất, không còn) và KINH (kinh nguyệt). Thất kinh có nghĩa là có thai. Từ này đặc biệt tượng thanh, tượng hình mô tả cảnh mặt mày xanh lè, mồ hôi đầm đìa, chân tay lẩy bẩy đối với những ông chán cơm, thèm phở hay những chàng ăn cơm trước kẻng khi thất kinh nghe nàng báo thất kinh!
Thi hào Nguyễn Du cũng từng vận dụng thuật ngữ này. Trong Truyện Kiều, ông đã mô tả kỳ án nàng Kiều có thai (với ai à ta?) bằng câu:
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,

Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.

Tình già

Tình yêu đích thực làm gì có tuổi để mà cân đong đo đếm là tình già, tình non, tình trẻ, tình xồn xồn.
Vì thế, "tình già" ở đây, chí ít là trong Gia đình THKT, chỉ nên hiểu là "tình của người già".
Khi đã yêu thì bận tâm chi là già hay trẻ. Khi đã yêu thì ai cũng như ai thôi, cũng cuồng nhiệt, cũng đắm say, cũng ngô nghê, cũng sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu. Yêu là lý lẽ của con tim, cái lý trí mà xía vô là hư bột hư đường ráo trọi.
Kiến Đen từng viết trong bài thơ Yêu:
Yêu nhau mặn muối cay gừng
Xìu xìu ển ển thì đừng có yêu!


Tình thân

Tình thân thường được dùng và khoái được dùng với cái nghĩa của cụm từ "tình cảm thân thiết".
Có nghĩa là tình thân có cấp độ cao hơn tình cảm bạn bè bình thường. Nó cũng phi giới tính (unisex), nam hay nữ đều dùng được và không hề gây ngộ nhận Pattaya. Và như vậy, giữa hai thể nhân khác phái tính, từ tình thân phát triển tới tình yêu có phần gần hơn, dễ hơn. Tất nhiên là còn phải trông mong vào sự hên xui và duyên số!
Rõ ràng chẳng phải ai cũng có thể được trao, được hưởng quy chế tình thân. Nó là một loại "limited edition" (phiên bản hạn chế) và thậm chí "selected edition" (phiên bản chọn lọc) của tình cảm giữa người và người.
Tình thân không phải là thứ bất biến, thậm chí còn dễ biến đổi hơn nhiều thứ trên đời này, mà thường nhất là bị hao mòn qua thời gian và không gian. Bởi vậy, cả hai phía đều phải có ý thức và cùng nỗ lực không ngừng để duy trì cấp độ của tình thân.
Nhưng tình thân còn mang một cái nghĩa xam xám. "Thân" trong tiếng Hán Việt là cái con khỉ. Vậy, tình thân có khi bị biến thành "tình cái con khỉ", "tình của con khỉ". Thật ra, loài khỉ cũng có cái tình của nó, và nếu thấy loài người dùng chữ "tình thân" với hàm ý xấu, nó có thể khởi kiện ra tòa án Thiên nhiên vì cảm thấy mình bị xúc phạm.
Chỉ có điều, khỉ là khỉ, người là người, tình cảm của loài người mà bị coi giống như tình cảm của loài khỉ thì chỉ còn có nước ngước mặt lên trời mà cười ba tiếng, khóc ba tiếng, rồi cảm thán: "Trò khỉ!".


Tội tình

Trong nhạc phẩm Bài không tên số 4, nhạc sĩ Vũ Thành An trăn trở: "Nói cho quên đi những tội tình". Rồi dân gian ta khi ám chỉ chuyện "hành hạ" nhau lại có cách nói là "làm tình, làm tội" nhau. Nghe mà chết khiếp! Cái nào cũng mệt mỏi đứ người cả.
Sao mà "tội tình" đến như vậy?
"Tội tình" trong ngữ cảnh này là cách nói rút gọn của cụm từ "tội lỗi về tình yêu". Bạn có thấy "tội tình" không?


Trăng mật

Thầy Ngô Bảo Toàn:
Một hôm đi ngang qua nhà vợ chồng anh chị Tám Nhiều hàng xóm, vô tình pha thêm chút "hữu ý", Ngô Nguyên soái tôi được thưởng thức một cuộc tranh luận thật là thú vị cũa hai nhân vật này! Chuyện vầy nè: Anh Tám hỏi chị Tám: Tui đố bà vậy chớ chữ Trăng Mật có nghĩa là gì? Chị Tám cười sằng sặc và trả lời: Dễ ẹt! Trăng Mật có nghĩa là hôm đám cưới xong, hai vợ chồng lựa ngày nào trăng thiệt sáng rồi rủ nhau ra trước sân nhà và lấy mật ra... chấm ăn! Anh Tám nạt to: Tầm bậy, tầm bạ không hè! Trăng Mật có nghĩa là sau ngày cưới, tân lang và tân nương rủ nhau ra sau sân nhà đặng.. Trật Măn!? Nguyên soái tôi thú nhận là... "điếc" luôn, bởi lẽ mình chả hiểu được ý tứ cũa hai vợ chồng này là thế nào! Vậy, Kiến MZ còn chần chờ gì nửa mà không bình "loạn" dùm mọi người để thống nhất nghĩa từ này cho rõ ràng, thích đáng hơn. Kẻo có người hiểu theo kiểu riêng của mình thì... "mệt mỏi" lắm đó.
+ Hình như thời trai trẻ ở THKT, thầy Ngô Nguyên soái gài bẫy hoài mà cứ bị trật vuột nên giờ thua me gỡ bài cào, rắp ranh gài bẫy học trò chơi.
Trăng Mật theo cái nghĩa mà quý thầy cô Việt Văn khuyên dùng là thời gian lãng mạn (trăng) và ngọt ngào (mật) đầu tiên của một cặp vợ chồng. Rất tiếc là nó được xác định chỉ tồn tại có một... Tuần trăng mật. Tiếp ngay sau đó là những năm tháng "dập mật" vì gánh nặng cơm áo gạo tiền và trân mình chịu đựng lẫn nhau của đôi vợ chồng. Nhưng Tuần trăng mật quý giá đó cũng chỉ có ở những đôi tân hôn "cân đối được thu chi" hôn lễ, còn với những tân lang tân nương xui xẻo thất thu thì giai đoạn "dập mật" bắt đầu ngay từ đêm tân hôn!
Trong trường hợp này, vợ chồng anh chị Tám Nhiều đã ứng dụng tập quán Trăng Mật theo đúng nghĩa đen thui của nó!
Còn Trật Măn ư? Kiến MZ chẳng dại mà đút đầu vô bẫy của thầy Ngô đâu. Chỉ dám giải thích lòng vòng bằng cách chiết tự là: Trật có nghĩa như trong câu "trật áo cho người ta xem lưng", và Măn có nghĩa như trong câu "trẻ em măn vú mẹ". Còn ai hiểu sao và lắp ghép như thế nào thì Kiến MZ vô can!


Trần tục

Xin nói ngay đây là một chữ chẳng thanh thoát chút nào. Nó được ghép bởi hai chữ "TRẦN truồng" và "TỤC tĩu".


Trung dung

Thuyết Trung dung là một triết lý sống của Nho giáo. Trung là không ngả về một thái cực nào; dung là dung hòa, thích hợp với hoàn cảnh. Và từ xa xưa, đây là một trong những triết lý sống của người Á Đông.

Theo Yahoo! Hỏi & Đáp, với câu hỏi: “Theo bạn, thuyết Trung dung có còn giá trị và ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào?”, câu trả lời được nhiều người đồng tình nhất là: “Sách Trung Dung do Tử Tư soạn ra dựa trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.” Cách sống này còn được “diễn nôm” theo kiểu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”.

Thật ra, không phải dễ đạt được lối sống Trung dung đâu. Cần phải có bản lĩnh và sự thấu nhận. Trung dung là dung hòa những cái thuận nghịch, mâu thuẫn trong cuộc đời để có thể sống tốt mình, đẹp đời. Nếu không cẩn trọng, người ta dễ trở thành ba phải hay bất cần đời.
 

Trung dung là một triết lý sống. Vì thế, nó có mặt trong mọi ngõ ngách cuộc sống.

Trong giới tính học, Trung dung là để chỉ giới tính thứ ba – cái giới tính mà:
Người kia chẳng gái, chẳng trai
Ngọt ngào làm vợ, lai rai làm chồng


Trong nhân tướng học, Trung dung là đi chàng hảng, hai hàng.

Trong bộ môn xiếc, Trung dung là kỹ năng làm xiếc con lăn.

Trong dân gian học, Trung dung là cái bập bênh.


Trong đo lường học, Trung dung là cái cân đĩa.

Trong lao động học, Trung dung là người có khả năng "bắt cá hai tay", thậm chí mỗi tay một con, hai chân còn tranh thủ khoèo thêm 2 con nữa.

Trong tình học, Trung dung là người “sáng chở cơm đi ăn phở, trưa đèo phở đi ăn cơm.”

Trong thiền học, Trung dung là một cách thiền lửng lơ con cá vàng, người ngồi thiền một mắt nhắm phiêu diêu, một mắt liếc coi nhất cử, nhất động của phu nhân mình.

Trong đạo học, Trung dung là nhà đạo sĩ ngồi dựa vào phu nhân xinh đẹp mà tu tiên.

Người bày ra cái vụ "dzô dziên" mà lại "có duyên" cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi thuyết Trung dung.

Trong Gia đình THKT, Trung dung là Fan Club của cô Huỳnh Trung Dung – nữ chưởng môn phái Núi Bà Đen


Tương tự

Từ điển chính thống giải nghĩa "tương tự" là giống nhau, na ná nhau. Tiếng Anh là similar. Nhưng "tương tự" còn là một danh từ ghép chỉ một sản vật.
"Tương" là một thức ăn chay làm từ đậu nành. Tương hột đó. Còn "tự" là chùa. Vậy "tương tự" là chỉ loại tương hột làm ở... chùa, để phân biệt với tương làm ở nhà!


Tử y và tử trực

Chữ "tử y" (tử: chết, y: áo) để gọi cái áo mặc cho người chết. Nhưng nó cũng là món ăn khoái khẩu của nhiều người. Đâu, bạn ra chợ cá Mộc Hóa tìm mua vài con ếch to đem về nhờ bà xã nấu cho nồi "cháo ếch". Bây giờ, bạn trổ tài nói lái nhé: "cháo ếch" tức "chết áo", mà "chết áo" dịch ra tiếng Hán là "tử y".

Chữ "tử trực" (tử: chết, trực: thẳng), nghĩa là xác chết được để nằm xuôi tay, thẳng cẳng. Nhưng nó cũng chỉ một loại gia vị quen thuộc. Này nhé, "tử" là "con", và "trực" là "ngay". Vậy "tử trực" là "con ngay", mà "con ngay" nói lái là "cay ngon". Chỉ có trái ớt thì cay mới ngon thôi! (NGUYỄN CÔNG PHONG bình "loạn")


Về hưu

Về hưu là một động từ được chia chung cho tất thảy thành viên Gia đình THKT. Người thì đã chia động từ này ở thời quá khứ (đã), người thì còn ở thời tương lai gần (sắp).
 
Về hưu có nghĩa là đã tới hạn hết tuổi lao động theo luật định của từng nước. Thí dụ, ở Việt Nam, tuổi hưu là 60 (nam) và 55 (nữ). Còn ở Mỹ, nam nữ đều 65 tuổi mới về hưu. Đó là tính trong trường hợp bình thường. Còn có những người nghỉ hưu non trước tuổi (hoặc tự nguyện, hoặc bị bắt buộc)

Về hưu, nghỉ hưu hay hưu trí đều cùng nghĩa, tiếnh Anh gọi là retire. Nhưng nhiều người thích dùng chữ "về hưu" hơn, bởi nó nhẹ nhàng, không gây cảm giác... "hết thời".

Cảm nhận và thái độ của người ta đối với về hưu có nhiều sắc thái, cung bậc:

- Kẻ tiêu cực: Híc, vậy là hết còn được làm việc nữa rồi.
- Người tích cực: Wow, mình đã hoàn thành nhiệm vụ của một đời người.
- Kẻ bi quan: Mình hết thời rồi, coi như tàn một kiếp người.
- Người lạc quan: Vậy là từ nay mình có quyền nghỉ ngơi, có thể dành nhiều thời gian hơn cho gia đình.

Những ai thuộc dạng tiêu cực và bi quan sẽ còn khổ sở, đau đớn hơn nữa nếu như trước khi về hưu thuộc hàng có chức, có quyền.

Những người có đủ thâm niên để hưởng trọn lương hưu hay hưởng mức lương hưu kha khá thì nhẹ nhàng, thoải mái hơn những ai có ít năm lao động.

Nhưng bất luận thế nào, người ta sẽ phải tốn thời gian, nhiều hay ít tùy từng tạng người, để làm quen với cuộc sống về hưu trong giai đoạn đầu. Bởi dù muốn hay không, về hưu cũng làm xáo trộn mọi nếp sinh hoạt nhiều chục năm qua.

Việc đầu tiên là tối hôm trước, ta quẳng cái đồng hồ báo thức đi, sáng mai có thể ngủ nướng tới... khét thì thôi!


Vọng cổ và vặn cổ

Từ xưa tới nay, bản vọng cổ luôn được xem là bản chủ lực của nhạc tài tử cải lương. Nó không thể thiếu trong bất cứ cuộc chơi đờn ca tài tử hay trên sân khấu cải lương nào. Về Đồng Tháp Mười mà thiếu câu vọng cổ cũng giống như cô thôn nữ thiếu cái áo bà ba. Bản vọng cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác tại thị xã Bạc Liêu. Từ cái tên ban đầu là Dạ cổ, nó được đổi thành Dạ cổ hoài lang rồi cuối cùng là vọng cổ như ngày nay. Tất nhiên, bản vọng cổ ngày nay đã trải qua nhiều cải biên. (Xin tham khảo).
Còn vặn cổ là một động tác tương tự như bẻ cổ. Nhiều người có thói quen vặn vẹo, lúc lắc cái đầu qua lại cho các khớp cổ kêu răng rắc, nói là cho nó hết cứng cổ. Ở ngữ nghĩa tệ hại nhất, vặn cổ có nghĩa là làm cho gãy cổ. Như vặn cổ gà, hăm he nhau "tao vặn cổ mày bây giờ",...
Vậy thì cớ sao lại tạt qua cái vụ "vặn cổ" khi nói về "vọng cổ"? Bài hát vọng cổ sẽ cực kỳ mùi mẫn, chết lòng người khi được ca đúng bài bản và có giọng ca tốt. Còn nếu không, vọng cổ sẽ tra tấn người nghe như thể là bị "vặn cổ" vậy đó! Tóm lại, hát đúng, hát hay: vọng cổ; hát sai, hát dở: vặn cổ!


Xuôi, xui và suôi

Thầy Ngô Bảo Toàn:
Thầy có một thắc mắc nhỏ (như con thỏ!) này muốn nhờ Kiến MZ "bình lọan" giùm thầy (chi phí masage tay thầy hoàn toàn... cam chịu!). Số là vầy: thầy có một người bạn dạy môn Văn và sau này là nhà văn có tên tuổi. Hôm gặp nhau ở quán cà phê máy lạnh, bên ly cà phê "ấy" chồn thơm phức hòa lẫn trong tiếng nhạc du dương, bạn thầy tâm sự thế này: Tôi có hai đứa con. Thằng nếp nhà tôi may mắn cưới được con vợ ngoan hiền. Tình thông gia chúng tôi không có gì phải phàn nàn, chê trách. Anh Xuôi tôi vui vẻ, chị Xuôi tôi hiền lành. Tội nghiệp con tẻ nhà mình lấy nhằm thằng chồng nát rượu, ham mê cờ bạc! Đã thế, anh Xui và chị Xui này cũng không ra gì. Rồi anh thở dài và lẩm bẩm: Suôi với gia, rõ chán mớ đời!
Kiến MZ ơi, Thầy điên đầu với anh bạn già qua mấy chữ Xuôi, Xui, Suôi?!
Vậy, em còn chần chờ gì nữa mà không "bình loạn" giùm thầy cho tỏ tường (như cục... đường).
+ Thật ra thì thầy Ngô Nguyên Soái ăn thịt thỏ ragu xong tráng miệng bằng "cục đường" rồi quăng cục muối cho Kiến MZ mà thôi. Báo hại Kiến MZ phải chạy về động Bàng Tơ thỉnh giáo Trạng Quỳnh tổ sư. Thật ra đây là một kiểu chơi chữ không chỉ có tượng hình, tượng thanh mà còn cả tượng cảnh (ngộ) nữa.
Xuôi: Có được rể hiền, dâu ngoan này đúng là "xuôi chèo mát mái" rồi.
Xui: Gặp phải ông rể "trời đánh ba búa mà vẫn nhăn răng" và ông bà "xui" không biết điều như vậy quả là "xui xẻo tận mạng" rồi.
- Suôi: Từ này chớ hề có trong tiếng Việt mà là một style đọc từ "sui". Hình như là kiểu phát âm chữ "u" dài của người Hà Nội. Nó giống như một sự dung hòa giữa "xuôi" và "xui", thôi thì cam chịu thôi, "xui" nào cũng là "xuôi"!
Xin mở ngoặc nói thêm: theo từ điển, không có chữ "xuôi gia" hay "xui gia" mà phải là "sui gia".

 
 http://www.trunghockientuong.com/blog/chudanghia_001.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét